Luật hóa Nghị quyết 42 để bảo vệ cả 'con nợ' lẫn 'chủ nợ'
Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm được kỳ vọng giúp cân bằng quyền lợi hợp pháp giữa 'con nợ' và 'chủ nợ', tránh tạo ra sự bất đối xứng giữa bên cho vay và bên đi vay, từ đó giúp kiến tạo môi trường kinh doanh sòng phẳng, 'có vay, có trả'.
Dự kiến, ngày 20/5, Quốc hội sẽ nghe và thảo luận về Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), trong đó nội dung được các ngân hàng mong chờ nhất là luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Trước đó, nội dung này đã được đưa vào tại Nghị quyết 42/2017/QH 14 về thí điểm xử lý nợ xấu và trở thành “vũ khí” hiệu quả để ngành ngân hàng xử lý nợ xấu trong suốt 7 năm. Sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực, nợ xấu lại vọt tăng do tình trạng chây ỳ trả nợ tăng lên.
Quy mô nợ xấu lên khoảng 1 triệu tỷ đồng
Hiện, quy mô nợ xấu toàn nền kinh tế đã lên khoảng 1 triệu tỷ đồng. Số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng cho thấy nợ xấu đang tăng cao trở lại. Tính đến tháng 1/2025, nợ xấu nội bảng ở mức 4,3%. Đáng lo là trong khi nợ xấu tăng nhanh thì việc xử lý nợ xấu chậm lại.
Thống kê của Hiệp hội Ngân hàng trong 2 tháng đầu năm 2025, nợ xấu tăng thêm khoảng 34.000 tỷ đồng, trong khi tốc độ xử lý nợ xấu chỉ đạt khoảng 15.000 tỷ đồng, chủ yếu do các tổ chức tín dụng trích dự phòng rủi ro để xử lý.
Theo phản ánh của các ngân hàng, việc không luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng (quy định tại Nghị quyết số 42) khiến nhiều khách hàng chây ỳ trả nợ. Hiện nay, việc xử lý tài sản bảo đảm phụ thuộc hoàn toàn vào quá trình tố tụng và bán tài sản trong quá trình thi hành án, thường kéo dài, dẫn đến ngân hàng khó xử lý nợ xấu.

Quy mô nợ xấu toàn nền kinh tế đã lên đến khoảng 1 triệu tỷ đồng
Ông Đặng Khắc Vỹ, Chủ tịch VIB cho biết, hiện nay, việc xử lý tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu rất khó khăn. Một trong những nguyên nhân cơ bản là Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực và Luật Các tổ chức tín dụng mới không có quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng kể cả khi đã có thỏa thuận với khách hàng về phương thức xử lý tài sản bảo đảm và quyền thu giữ tài sản bảo đảm đã được quy định trong hợp đồng bảo đảm phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị định 21 năm 2021 hướng dẫn thi hành.
Điều này dẫn đến việc xử lý tài sản bảo đảm phụ thuộc hoàn toàn vào quá trình tố tụng và bán tài sản bảo đảm trong quá trình thi hành án. Trong khi đó, quá trình khởi kiện, tham gia tố tụng và tiến hành thi hành án theo quy định cho mỗi một vụ án thường kéo dài, trong bối cảnh ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro, dừng dự thu lãi trong khi vẫn phải trả chi phí huy động vốn hàng ngày.
Thực trạng đó tạo ra rủi ro lớn, đặc biệt cho tổ chức tín dụng có hàm lượng cho vay bán lẻ tỷ trọng cao, hướng tới kích cầu, phải xử lý rất nhiều món nợ xấu giá trị nhỏ, địa lý phân tán, dẫn đến chi phí hoạt động cao trong vấn đề thu hồi nợ và làm giảm khả năng đẩy mạnh cho vay khách hàng.
Không chỉ vậy, theo ông Đào Mạnh Kháng, Chủ tịch HĐQT ABBank, ngân hàng còn gặp một khó khăn nữa là khâu tố tụng tại cấp huyện chuyển xuống cấp xã, nên ngân hàng gặp vướng, khiến tiến độ thu hồi nợ chậm lại và đang phải kiến nghị, đề xuất một số cơ chế phối hợp với chính quyền địa phương để tháo gỡ.
Đảm bảo công bằng giữa các bên
Theo các chuyên gia, số “vốn chết” khổng lồ từ khoản nợ xấu đang gây lãng phí nguồn lực trong bối cảnh nền kinh tế thiếu vốn và là nguyên nhân khiến mặt bằng lãi suất cho vay ở mức cao. Thêm vào đó, tài sản thế chấp gắn với các khoản vay cũng không thể sử dụng, khai thác do vướng rủi ro pháp lý.
Có thể nói, luật hóa quyền thu giữ tài sản đang trở thành vấn đề cấp bách nhằm tháo gỡ các vướng mắc hiện nay về xử lý nợ xấu, giúp tăng dòng chảy vốn trong nền kinh tế, từ đó giảm chi phí vốn cho người dân, doanh nghiệp. Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm cũng giúp cân bằng quyền lợi hợp pháp giữa “con nợ” và “chủ nợ”, tránh tạo ra sự bất đối xứng giữa bên cho vay và bên đi vay, từ đó giúp kiến tạo môi trường kinh doanh sòng phẳng, “có vay, có trả”.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2024 không chỉ tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thu hồi nợ, mà là tiếng chuông cảnh tỉnh để người đi vay phải có ý thức và trách nhiệm trả nợ, xóa bỏ tư duy tìm mọi cách không trả nợ, tìm mọi cách để không bàn giao tài sản, tìm mọi cách để xin miễn lãi, thậm chí vay để trả gốc và cũng không muốn trả lãi, trong khi tài sản bảo đảm rất lớn.
Trước đòi hỏi của thực tiễn, tuần này, Chính phủ sẽ trình Quốc hội xem xét, thông qua Dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) nhằm luật hóa một số nội dung của Nghị quyết 42, trong đó có quyền thu giữ tài sản đảm bảo.
Trao đổi với VnBusiness, TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính – ngân hàng đánh giá việc luật hóa Nghị quyết số 42 là cần thiết để tạo ra khung pháp lý vững chắc cho xử lý nợ xấu, song cần bảo đảm hoạt động này được thực hiện công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu giữ tài sản bảo đảm cũng như người có liên quan.
Chẳng hạn cần có cơ chế thu giữ tài sản bảo đảm có điều kiện, được quy định chặt chẽ, có sự giám sát của cơ quan chức năng để tránh lạm dụng quyền lực từ phía ngân hàng. Cũng cần có thêm quy định thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm trong bao lâu, không phải ngân hàng thương mại thu hồi rồi "ngâm" đấy đợi giá lên mới xử lý.
Mặt khác, các ngân hàng cũng không thể coi đây là “cây đũa thần”, mà phải siết chặt hơn nữa công tác quản lý, nâng cao chất lượng tín dụng, năng lực quản trị rủi ro trong bối cảnh quy mô tín dụng tăng nhanh. Đồng thời, ngành ngân hàng cũng phải tìm giải pháp phát triển hơn nữa thị trường mua bán nợ nhằm giải quyết rốt ráo bài toán nợ xấu.