Lời thề không gỉ

Không cùng quê, cũng chẳng học chung trường. Tôi và Minh gặp nhau trong một hoàn cảnh mà có lẽ cả đời này tôi chẳng bao giờ quên. Những người quan trọng trong cuộc đời, đôi khi đến không cần lý do, không cần sắp đặt. Họ cứ thế mà bước vào - lặng lẽ, nhưng để lại dấu ấn không thể xóa nhòa.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Chúng tôi quen nhau trong một chuyến đi tình nguyện ở vùng cao. Khi ấy tôi là sinh viên năm hai trường Sư phạm, còn Minh thì đã đi làm được hai năm, là kỹ sư xây dựng theo đoàn tình nguyện của tỉnh. Không ai nghĩ một thằng sinh viên mộng mơ như tôi lại có thể chơi thân với một anh chàng kỹ sư cứng cỏi, bụi bặm như Minh. Nhưng đời mà, những điều tưởng chừng vô lý đôi khi lại trở thành những mối gắn kết bền bỉ nhất.

Chúng tôi cùng dựng lều, cùng vác từng bao xi măng, cùng nấu những bữa cơm dã chiến dưới chân núi. Đêm đến, bên ánh lửa trại, tôi ngồi gảy đàn hát nghêu ngao, Minh ngồi cạnh, gật gù theo nhịp. Cả hai đều yêu những khoảng lặng của núi rừng, những buổi sáng mù sương và cái rét tê người khiến ai cũng phải xích lại gần nhau. Những điều nhỏ nhặt đó, từng chút một, đã xây nên một tình bạn thật đặc biệt.

Chuyến đi ấy kéo dài ba tuần, nhưng đủ để gắn kết hai con người chẳng chung xuất phát điểm. Trở về thành phố, chúng tôi vẫn giữ liên lạc. Minh không giỏi gọi điện, càng không thích nhắn tin. Tôi thì ngược lại - một ngày không tám chuyện là thấy thiếu. Nhưng rồi, không hiểu sao, chúng tôi cứ vậy mà thân thiết, như thể đã quen nhau cả đời.

Một lần, khi cả hai đã khá thân, tôi hỏi:

- Sao anh lại chơi với em kỹ vậy? Em thấy em đâu hợp với anh.

Minh cười, cái kiểu cười trầm lặng nhưng có sức nặng hơn mọi lời nói:

- Vì chú thật. Chú sống không giả. Người thật thì lúc nào cũng đáng để giữ bên mình!

Lúc đó tôi chỉ cười, chẳng nói gì. Nhưng câu nói ấy, tôi giữ trong lòng suốt bao năm sau.

Một năm nọ, chúng tôi có chuyến đi chung đến một vùng ngoại ô, nơi có ngôi đền cổ giữa rừng thông. Đền nhỏ, vắng người, nhưng rất linh thiêng. Khi bước qua cổng đền, không hiểu sao cả hai đứa lại trầm hẳn. Có điều gì đó trong không khí khiến ta tự nhiên muốn nghiêm túc, muốn sống chậm lại, muốn thành tâm hơn.

Trong khuôn viên đền có một tiệm bán đồ lưu niệm. Ở đó, chúng tôi nhìn thấy một thanh kiếm giả được rèn bằng hợp kim, thân kiếm khắc những dòng chữ Hán cổ về chữ “nghĩa”. Không hiểu sao cả hai đều bị thu hút. Chúng tôi mua thanh kiếm ấy, mang vào đền, quỳ trước tượng ông Hoàng Mười, và... thề.

Không có ai chứng kiến, chỉ có gió, cây, và hương trầm quấn quanh. Tôi nhớ lời thề ấy đến giờ: “Nếu một ngày nào đó, một trong hai người đem trả thanh kiếm này, thì coi như tình bạn cũng không còn”.

Đó là một lời thề ngớ ngẩn, nếu nhìn từ bên ngoài. Nhưng với tôi, nó như một dấu mốc, một điểm neo, một sợi dây vô hình giữ tình bạn chúng tôi giữa dòng đời bộn bề.

Hơn hai mươi năm trôi qua.

Tôi giờ là một giảng viên đại học. Minh làm Giám đốc một Công ty xây dựng vừa và nhỏ. Mỗi người một cuộc sống, một thế giới, một hành trình. Nhưng thanh kiếm đó, chúng tôi vẫn giữ. Luân phiên mỗi năm một người cất giữ. Mỗi lần chuyển kiếm, chúng tôi đều gặp nhau, dù bận đến mấy.

Những năm tháng sau đó, chúng tôi không còn là hai chàng trai trẻ vô lo nữa. Cuộc sống bắt đầu cuốn từng đứa vào những vòng quay riêng. Tôi lấy vợ, sinh con. Minh thì bận rộn với công trường, dự án. Nhưng điều đặc biệt là: chúng tôi không bao giờ để mất nhau. Không thường xuyên, không ồn ào, nhưng luôn đúng lúc.

Mỗi năm, vào một ngày nhất định - ngày chúng tôi thề tại đền - một trong hai sẽ mang thanh kiếm đến, trao lại cho người kia. Chúng tôi gọi đó là “nghi lễ đổi kiếm”. Có năm tôi phải đi công tác ở miền Trung, Minh liền bắt chuyến xe đêm ra tận nơi chỉ để đưa kiếm rồi quay về sáng hôm sau. Tôi hỏi:

- Sao anh không gửi chuyển phát?

Nó bảo:

- Kiếm là lời thề, không gửi được. Phải trao tận tay.

Tôi lặng người. Đó là lần đầu tiên tôi nhận ra: có những điều, nếu không giữ bằng lòng tin và sự trân trọng, thì giá trị của nó cũng chỉ còn là hình thức.

Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi không nói nhiều về quá khứ, mà nói về hiện tại - về công việc, về những điều phiền lòng, về những niềm vui nho nhỏ. Có khi chỉ ngồi uống với nhau một ly cà phê buổi sáng, không nói gì, cũng đủ để thấy lòng nhẹ đi vài phần.

Có lần Minh gặp tai nạn trên công trường, suýt mất mạng. Tôi đang trong một kỳ thi cuối kỳ, nhưng nghe tin, tôi bỏ hết bay vào bệnh viện. Nó nằm đó, trắng bệch, nhưng vẫn nắm tay tôi, cười:

- Chú nhớ giữ kiếm cho chắc. Tao còn chưa trả đâu.

Câu nói ấy, nghe mà nghèn nghẹn. Tôi ngồi bên giường bệnh, lặng im suốt đêm. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy tình bạn có thể khiến người ta run sợ - sợ mất nhau, sợ phải một ngày cầm kiếm mà chẳng còn ai để trao.

Thời gian cứ thế trôi. Con tôi lớn dần, gọi Minh là "bác Minh" một cách tự nhiên như thể nó là chú ruột. Những dịp Tết, lễ, Minh đều ghé nhà tôi, mang theo bánh chưng hoặc vài chai rượu quê. Ngược lại, vợ chồng tôi cũng xem Minh như người thân, không một chút khách sáo.

Có một năm, tôi rơi vào khủng hoảng - công việc đình trệ, vợ chồng căng thẳng, lòng tôi đầy những bất mãn. Tôi đã từng nghĩ đến việc rời bỏ tất cả, vào Sài Gòn làm lại từ đầu. Chính Minh là người kéo tôi về từ cái hố sâu ấy. Nó đưa tôi lên núi Tam Đảo, nơi có một ngôi đền cổ, rồi nói:

- Chú nhớ thanh kiếm không? Đâu phải chỉ để nhắc chuyện chơi bời, mà để giữ cho nhau không quên điều gì là quan trọng.

Tôi im lặng. Chúng tôi lại đứng trước một đền thờ. Nhưng lần này, không có lời thề. Chỉ có ánh mắt nhìn nhau và một cái bắt tay thật chặt. Tôi hiểu: đôi khi, người ta không cần phải thề nữa, vì mọi thứ đã được khắc vào tim.

Năm tháng cũng dạy cho chúng tôi một điều: tình bạn không cần phải có mặt suốt ngày, mà chỉ cần không rời đi khi người kia cần. Chúng tôi từng đi qua bao mùa giông gió - người mất việc, người mất người thân, kẻ bị lừa tiền, người thất bại trong hôn nhân. Nhưng cả hai đều không để đối phương một mình.

Minh nói một câu mà tôi luôn ghi nhớ:

- Tao chơi với chú không vì ngày vui. Mà vì biết, có ngày buồn.

Không phải ai cũng sẵn sàng có mặt vào những ngày buồn. Nhưng Minh thì có. Và tôi cũng vậy.

Giờ đây, khi cả tôi và Minh năm mươi tuổi, cuộc sống đã bớt xô bồ, nhưng lòng người lại càng dễ chùng xuống. Chúng tôi ít gặp nhau hơn, bận bịu với gia đình, công việc. Nhưng mỗi lần nghĩ đến thanh kiếm ấy, tôi lại thấy như có một ngọn lửa âm ỉ được thắp lên trong tim.

Mới đây thôi, vào dịp kỷ niệm 20 năm lời thề, chúng tôi lại trở về ngôi đền năm xưa. Đền vẫn như cũ, nhưng chúng tôi thì khác - tóc đã điểm bạc, vai đã mỏi, nhưng ánh mắt vẫn là ánh mắt của hai chàng trai trẻ năm nào.

Chúng tôi mang thanh kiếm ra, lau chùi cẩn thận, rồi cùng quỳ xuống. Không thề thêm điều gì, chỉ khấn một câu cảm ơn - cảm ơn trời đất đã cho chúng tôi gặp nhau, kết làm bạn. Cảm ơn vì hơn 20 năm qua, chưa ai từng trả kiếm.

Rồi Minh nói:

- Mai kia, nếu một trong hai đứa không còn, kiếm này phải chôn cùng người ấy. Để lời thề không bị dang dở.

Tôi gật đầu. Không nói gì. Trong tim tôi có một nỗi nghẹn ngào khó tả - buồn đấy, nhưng cũng đẹp lắm. Vì tôi biết, không phải ai cũng có một người bạn sẵn sàng đi đến cuối cùng như vậy.

Thanh kiếm ấy không còn là món đồ vật nữa. Nó là một biểu tượng. Biểu tượng của niềm tin, của lời hứa, của sự hiện diện, và trên hết - của một tình bạn vĩnh cửu.

Và nếu ai đó hỏi tôi: “Điều gì quý giá nhất anh từng giữ trong đời?”, tôi sẽ không ngần ngại mà trả lời:

- Một thanh kiếm... và một người bạn!

Trung Anh

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/loi-the-khong-gi-a28642.html
Zalo