Lịch sử Hải Phòng - thành phố có vị trí quan trọng, chiến lược của quốc gia
Hải Phòng là thành phố lớn thứ 3 Việt Nam và là một thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp, cảng biển, đồng thời là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục thuộc Vùng duyên hải Bắc Bộ.

Bản đồ hành chính thành Phố Hải Phòng.
Hải Phòng là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đây là thành phố lớn thứ 3 Việt Nam và là một thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp, cảng biển, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học, thương mại và công nghệ thuộc Vùng duyên hải Bắc Bộ.
Vị trí địa lý
Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm phía Đông miền Duyên hải Bắc Bộ. Hải Phòng cách thủ đô Hà Nội 102 km.
Hải Phòng nằm ở vị trí giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng không.
Hải Phòng có vị trí vô cùng quan trọng và chiến lược của quốc gia về kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin và an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam-Trung Quốc.
Về địa giới hành chính, phía Bắc Hải Phòng giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây giáp tỉnh Hải Dương; phía Nam giáp tỉnh Thái Bình; phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ thuộc Biển Đông.
Hải Phòng có diện tích 1.526,52 km2. Theo kết quả điều tra dân số giữa kỳ năm 2024, dân số Hải Phòng là 2.121.841 người, đứng thứ 7 cả nước.
Lịch sử hình thành
Theo các kết quả khảo cổ học, Cái Bèo (Cát Bà) thuộc văn hóa Hạ Long, Tràng Kênh (Thủy Nguyên), Núi Voi (An Lão) thuộc văn hóa Đông Sơn, đã xác định vùng đất này từ xưa là nơi đã có cư dân Việt cổ sinh tụ, làm ăn.
Theo thư tịch cũ, toàn địa bàn xứ Đông (Hải Dương) xưa, bao gồm cả Hải Phòng ngày nay, thời Hùng Vương thuộc bộ Dương Tuyền, là một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang.
Dưới thời Bắc thuộc, thời đầu Công nguyên, các vùng đất thuộc địa bàn Hải Phòng ở phía Tây Bắc và vùng núi các huyện Thủy Nguyên, An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo... còn phía Đông Nam các huyện trên vẫn còn là biển cả.
Thời kỳ độc lập tự chủ của các triều đại phong kiến Việt Nam, vùng này lại nổi tiếng với các chiến thắng trên sông Bạch Đằng như trận Bạch Đằng, 938 của Ngô Quyền; trận Bạch Đằng, 981 của Lê Hoàn; trận Bạch Đằng, 1288 của Trần Hưng Đạo. Đến triều đại nhà Hậu Lê (giai đoạn Lê sơ), vùng này nằm trong xứ Hải Dương (là miền cực Đông duyên hải của xứ này).

Bản đồ tỉnh Hải Phòng năm 1887. (Ảnh: wikipedia)
Tới nhà Mạc, vì đây là quê hương của nhà Mạc nên vùng này được chú ý xây dựng thành kinh đô thứ hai gọi là Dương Kinh.
Sau đó, từ nhà Lê Trung Hưng đến nhà Nguyễn vùng này đều thuộc trấn Hải Dương và sau này là tỉnh Hải Dương (1831).
Năm 1870-1873, Bùi Viện, được sự tiến cử với vua Tự Đức của Doanh điền sứ Doãn Khuê, đã thực hiện việc xây dựng một bến cảng bên cửa sông Cấm mang tên Ninh Hải và một căn cứ phòng ngự bờ biển ở liền kế bên, gọi là nha Hải phòng sứ.
Khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873-1874, nhà Nguyễn phải ký hòa ước Giáp Tuất, trong đó quy định nhà Nguyễn phải mở cửa thông thương các cảng Ninh Hải (Hải Phòng) thuộc tỉnh Hải Dương và Thị Nại tỉnh Bình Định, để đổi lấy việc Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ. Sau đó tại cảng Ninh Hải này, nhà Nguyễn và Pháp lập nên một cơ quan thuế vụ chung, quản lý việc thương mại ở vùng cảng này gọi là Hải Dương thương chính quan phòng.
Năm 1887, người Pháp cho thành lập tỉnh Hải Phòng tách vùng lân cận cảng Ninh Hải ra từ tỉnh Hải Dương.
Đến tháng 7/1888 có tên thành phố Hải Phòng, lại lập thành tỉnh Kiến An và thành phố Hải Phòng từ tỉnh Hải Phòng.
Đến 1893 thêm huyện Tiên Lãng và năm 1898 thêm huyện Thủy Nguyên nữa được cắt về tỉnh Hải Phòng và thành phố Hải Phòng được tách ra từ tỉnh Hải Phòng. Phần còn lại của tỉnh Hải Phòng lập thành tỉnh Phù Liễn. Từ năm 1906 đổi tên là tỉnh Kiến An.
Dưới thời Pháp thuộc, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Hải Phòng đứng ngang hàng với Hà Nội, Sài Gòn, là thành phố cấp 1. Sau đó, Hải Phòng là một trong những trung tâm của phong trào cách mạng cả nước trong các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939 và 1939-1945.

Toàn cảnh Hải Phòng năm 1931. (Ảnh: wikipedia)
Ngày 26/9/1955, huyện Hải An của tỉnh Kiến An sáp nhập vào thành phố Hải Phòng.
Ngày 5/6/1956, thị xã Cát Bà và huyện Cát Hải của khu Hồng Quảng sáp nhập vào thành phố Hải Phòng.
Ngày 22/7/1957, chuyển thị xã Cát Bà thành huyện Cát Bà, bao gồm thị xã Cát Bà cũ và 5 xã Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám, Hiền Hào và Gia Luận, thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn Cát Bà thuộc huyện Cát Bà.
Sau hòa bình lập lại, để mở rộng thành phố Hải Phòng, ngày 27/10/1962, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra quyết định thành lập trên cơ sở hợp nhất thành phố Hải Phòng cũ và tỉnh Kiến An. Từ đây, Hải Phòng có 3 khu phố là Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền và 9 huyện An Dương, An Lão, Cát Bà, Cát Hải, Hải An, Kiến Thụy, Thủy Nguyên, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo.
Ngày 14/3/1963, Hội đồng Chính phủ ra quyết định thành lập thị xã Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng.
Ngày 7/4/1966, để đáp ứng kịp thời yêu cầu chiến đấu và sản xuất của thành phố Hải Phòng trước mắt cũng như lâu dài, Hội đồng Chính phủ ra quyết định hợp nhất 2 huyện huyện An Dương, Hải An thành huyện An Hải.
Ngày 4/4/1969, hợp nhất 2 huyện An Lão và Kiến Thụy thành huyện An Thụy.
Ngày 11/3/1977, huyện Cát Bà được sáp nhập vào huyện Cát Hải. Huyện Cát Hải gồm thị trấn Cát Bà và 13 xã Cao Minh, Đồng Bài, Gia Lộc, Gia Luận, Hiền Hào, Hòa Quang, Hoàng Châu, Nghĩa Lộ, Phù Long, Trân Châu, Văn Phong, Việt Hải, Xuân Đám.
Ngày 5/3/1980, thị xã Đồ Sơn và 21 xã của huyện An Thụy được sáp nhập thành huyện Đồ Sơn; thị xã Kiến An cũng được sáp nhập với 16 xã còn lại của huyện An Thụy thành huyện Kiến An.
Ngày 3/1/1981, đổi khu phố thành đơn vị hành chính cấp quận, từ đó Hải Phòng có 3 quận Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền và 7 huyện An Hải, Cát Hải, Đồ Sơn, Kiến An, Thủy Nguyên, Tiên Lãng và Vĩnh Bảo.
Ngày 6/6/1988, thành lập thị xã Đồ Sơn trên cơ sở thị trấn Đồ Sơn và xã Bằng La; đổi tên huyện Đồ Sơn thành huyện Kiến Thụy. Thành lập thị xã Kiến An trên cơ sở thị trấn Kiến An và 3 xã Bắc Hà, Đồng Hòa, Nam Hà thuộc huyện Kiến An; đổi tên huyện Kiến An thành huyện An Lão.
Ngày 5/5/1990, Hải Phòng được công nhận là đô thị loại 2.
Ngày 9/12/1992, thành lập huyện đảo Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải Phòng.
Ngày 29/8/1994, thành lập quận Kiến An thuộc thành phố Hải Phòng trên cơ sở thị xã Kiến An.
Ngày 20/12/2002, sáp nhập 2 xã Vĩnh Niệm và Dư Hàng Kênh của huyện An Hải về quận Lê Chân và chuyển thành 2 phường có tên tương ứng, thành lập quận Hải An trên cơ sở tách 5 xã Đằng Lâm, Đằng Hải, Đông Hải, Nam Hải, Tràng Cát thuộc huyện An Hải và phường Cát Bi thuộc quận Ngô Quyền, đổi tên phần còn lại của huyện An Hải thành huyện An Dương.
Ngày 9/5/2003, Hải Phòng được công nhận là đô thị loại 1 trực thuộc trung ương.

Một góc thành phố Hải Phòng. (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)
Ngày 12/9/2007, quận Dương Kinh được thành lập trên cơ sở điều chỉnh huyện Kiến Thụy (bao gồm các xã Anh Dũng, Hưng Đạo, Đa Phúc, Hòa Nghĩa, Hải Thành, Tân Thành; quận Đồ Sơn cũng được thành lập trên cơ sở thị xã Đồ Sơn và xã Hợp Đức, huyện Kiến Thụy. Thành phố Hải Phòng có 7 quận và 8 huyện.
Ngày 24/10/2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1232/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của thành phố Hải Phòng giai đoạn 2023-2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/1/2025). Theo đó, sắp xếp quận Hải An, huyện Thủy Nguyên và các đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc; thành lập thành phố Thủy Nguyên và các phường trực thuộc; sắp xếp huyện An Dương, quận Hồng Bàng và các đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc; thành lập quận An Dương và các phường trực thuộc.
Như vậy, Thành phố Hải Phòng có 8 quận, 1 thành phố và 6 huyện trực thuộc như hiện nay.
Ngày nay, Hải Phòng là một thành phố phát triển mạnh mẽ. Năm 2024, Hải Phòng tiếp tục lọt vào danh sách Câu lạc bộ thu ngân sách trên 100.000 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Thành phố ước đạt hơn 109.000 tỷ đồng, vượt kế hoạch, đạt 111,8% dự toán Trung ương giao.
Chỉ tiêu tăng trưởng GRDP nhiệm kỳ Đảng bộ khóa 2020-2025 tối thiểu 14,5%/năm, chỉ tiêu GRDP/người năm 2025 là 11.800 USD, cao nhất trong số các tỉnh thành cả nước./.