Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6) 'Nhựt trình đỏ…'

1. Ngày xưa, thành gắn liền với thị thành quách, đồn binh - công sở đều có chợ búa bán buôn đi kèm. Đến khi người Pháp áp đặt chế độ thuộc địa, trong quy hoạch bộ máy cai trị đồn binh, trại lính đều tính đến nơi giao lưu, trao đổi hàng hóa. Từ đó, quá trình đô thị hóa bắt đầu với những thị tứ được hình thành ngày càng rõ nét ở Nam Kỳ lục tỉnh, trong đó có Biên Hòa.

Sách ảnh song ngữ 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Sách ảnh song ngữ 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Việc hình thành các thị tứ với chợ búa, bến tàu, bến xe là phương tiện lưu thông trao đổi hàng hóa ra cả vùng, cả tỉnh ra cả nước, có khi bán buôn tận Hong Kong (Trung Quốc), Campuchia… Cùng với chợ búa, thị tứ còn là nơi đặt công sở, đồn lính, trường học, tiệm buôn, tiệm nước, nhà hát và các loại quán xá linh tinh. Và thị tứ cũng là nơi ngụ cư của những người biết tiếng Pháp, chữ quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh làm việc cho Pháp như: thầy thông, thầy ký, thầy giáo, quan trắc địa, họa đồ, thợ thủ công, tiểu thương, chủ chành, chủ vựa… Kể cả thầy đội, cai xu, nhân viên nhà đoan, tào cáo, nhà dây thép, cò Tây, lính kín… là đối tượng mà nhà báo, người làm báo nhắm đến trong khâu phát hành.

Có thể nói, họ là đối tượng đầu tiên tiếp xúc với báo chí: báo tiếng Pháp lẫn báo tiếng Việt; báo của nhà cầm quyền lẫn báo của những người yêu nước, tiến bộ cách mạng và báo chí yêu nước, cách mạng ngày càng tác động từ nông đến sâu, từ thấp đến cao vào nhận thức, tình cảm của họ, hướng họ theo đường ngay nẻo thẳng. Từ vai trò, vị trí xã hội của những người này, thông tin tích cực của báo chí sẽ được lan tỏa trong nhân dân. Trước năm 1945, các “thầy chú” sáng sáng ngồi tiệm nước khoe chuyện nhựt trình ở Sài Gòn đăng chuyện đình công, bãi thị ở chỗ này chỗ kia; gạo xuất khẩu xuống giá, mủ cao su lên giá là “mốt” thời thượng của những người có tiếp xúc với báo chí.

Năm 2025, cũng là thời điểm báo chí thế giới chạm mốc lịch sử 420 năm ra đời 1605-2025).

Đó là nhóm những người biết chữ Pháp, chữ Việt, còn đa số nhân dân trước năm 1945 đều bị mù chữ thì “đọc” báo bằng cách nào? Nhân dân lao động rất sáng tạo bằng cách con cháu biết đọc chữ đọc cho họ nghe rồi họ nhớ như nhớ Tam Quốc diễn nghĩa, Tiết Nhơn Quý chinh Đông, Tiết Đinh San chinh Tây, Chung Vô Diệm, Lưu Kim Đính, Phàn Lê Huê, Lục Vân Tiên, Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc… Trước đó, họ đã từng lén nghe con cháu đọc bản dịch chép tay, các bài báo của Nguyễn Ái Quốc đăng trên Báo Người Cùng Khổ ấn loát ở bên Tây đưa về bến Sáu Kho (Sài Gòn), rồi về chợ Biên Hòa và lan ra các chợ Đồn, chợ Đồng Ván, chợ Đồng Môn, chợ Bến Cá, chợ Bến Gỗ, chợ Chiếu, chợ Búng, chợ Uyên Hưng… Rồi từ câu chuyện “đọc báo giùm” của các cô cậu học trò Trường Complémentaire de Biên Hòa (tiểu học Nguyễn Du) và các trường tiểu học ở các Tổng Chánh Mỹ Thượng, Chánh Mỹ Trung, Chánh Mỹ Hạ, nội dung các bài viết trên nhựt trình chữ Pháp đã trở thành các “chương trình phát thanh” bí mật qua “hệ thống loa không dây” được rỉ rả thì thầm ở các chợ, bến tàu, bến xe ngựa ở tỉnh Biên Hòa. Đây mới đích thực là công chúng báo chí của báo chí yêu nước, cách mạng, cộng sản.

Trong cái nhà tù lớn của xứ thuộc địa với bộ máy cai trị hà khắc, kiềm kẹp hết sức gắt gao, sẵn sàng đàn áp một cách dã man mà dám đọc báo, nghe báo và truyền bá những nội dung tiến bộ của báo chí (mà ngày trước gọi là nhựt trình) đã là dũng cảm, yêu nước lắm vậy. Bộ phận “đọc” báo gián tiếp này rất đáng trân quý, bởi họ mới đích thực là đối tượng mà báo chí yêu nước, cách mạng, cộng sản hướng đến để nhằm thức tỉnh, khơi dậy lòng yêu nước vốn có trong lòng người dân mất nước, sớm phải chịu cảnh: “Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.

2. Thực tiễn đã chứng minh: Trong thời đoạn lịch sử 1930-1945, tư tưởng của nền tân học đã thắng thế qua việc vua Khải Định ký sắc chỉ bãi bỏ Kỳ thi Hán học (năm 1919) - vốn đã tồn tại hơn 1 ngàn năm ở nước ta. Biểu hiện rõ rệt nhất của đà thắng thế này là gương mặt của nền chính trị Việt Nam với việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước lên vũ đài chính trị giương cao ngọn cờ dân tộc và giai cấp, trở thành sức hấp dẫn, niềm tin về một vận hội mới cho dân tộc. Vũ khí chủ yếu của những người cộng sản thời bấy giờ là báo chí với việc Nguyễn Ái Quốc cho ra đời Báo Thanh Niên (ngày 21-6-1925) - mở ra dòng báo chí cách mạng do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, rèn luyện - tạo một điểm nhấn lịch sử, mở ra một luồng gió mới làm bùng cháy những cục than hồng về lòng yêu nước được giấu kín lâu nay trong xưởng máy, dưới hầm lò, bên gốc cao su, cạnh đống rơm, ở sân trường học bản xứ…

Báo chí cách mạng đã nói đúng tâm trạng của dân tộc, bấm trúng huyệt đạo, khơi thông các động mạch chủ làm bừng tỉnh một thế hệ, tổ chức cho họ dấn thân, chuẩn bị làm nên một cơn bão lớn, quét phăng mọi gông cùm nô lệ của thực dân và những trói buộc suốt ngàn năm phong kiến. Từ khai mở nhận thức của “nhựt trình đỏ” - người Biên Hòa thuở ấy gọi như thế - đã cổ động thanh niên đứng lên đáp lời sông núi trong tâm thế “bung lên” của những chiếc lò xo bị kìm nén lâu ngày. Chẳng thế nên chỉ vài tháng giữa năm 1945, có hàng chục ngàn thanh niên Biên Hòa gia nhập Nhóm Thanh niên Tiền Phong do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh được Xứ ủy lãnh đạo và lực lượng này làm nòng cốt trong khởi nghĩa giành chính quyền ở Biên Hòa ngay sau đó. Cho nên sau tháng 8-1945, người thường đọc nhựt trình ở Biên Hòa thấy trong chính quyền Việt Minh có những cái tên từng xuất hiện trên mặt báo ở Sài Gòn trước đó như: Lý Văn Sâm, Trần Hiếu Thuận, Tiêu Như Thủy, Huỳnh Văn Nghệ, Vũ Duy Thanh, Nguyễn Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Tiết, Hồ Văn Cống, Lương Văn Lựu…

Từ thực tế này, một câu hỏi được đặt ra: có người viết báo, làm nhựt trình, tại sao ở Biên Hòa không có tòa soạn báo nào cả?

Điều này được nhà báo Đinh Phong, nguyên Phó chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, lý giải khi năm 1996, nhà báo gốc Huế này đã đưa cho một nhà báo ở Đồng Nai một sấp Báo Giải Phóng - Cơ quan của Đảng bộ miền Đông Nam Kỳ xuất bản năm 1933-1934, ghi nơi ấn loát là thị xã Biên Hòa.

Sau Nam Bộ kháng chiến, rồi toàn quốc kháng chiến, trước sức tấn công áp đảo của quân Pháp, được sự hà hơi giúp sức của quân Anh, quân Nhật, mặt trận Sài Gòn - Gia Định vỡ, phải lui về Biên Hòa. Rồi Biên Hòa cũng mất, các lực lượng kháng chiến rút về Chiến khu Đ (Tân Uyên) tổ chức chiến đấu lâu dài. Một trong những vũ khí kháng chiến lúc bấy giờ là báo chí - báo chí cách mạng mà hồi đó nhân dân gọi là nhựt trình. Các nhà báo, nhà văn nổi danh ở Sài Gòn như: Hoàng Tấn, Hoàng Phố, Lý Văn Sâm, Trúc Khanh, Vũ Tùng, Hoàng Tố Quyên… cũng về Chiến khu Đ tham gia mặt trận “nhựt trình đỏ” với các báo: Chống xâm lăng, Đồng Nai, Tiếng Rừng, Tiến Lên, Cần Lao, Giải Phóng, Thông Tin, Thủ Biên, Tạp chí Văn hóa, Việt Nam tiến, Bò Cạp Lửa, Xây Dựng, Dân Quân, Cờ Giải Phóng, Đấu Tranh, Chiến Thắng, Thông tin Thủ Biên…

3. Nhờ tờ báo nói của quốc gia mà nhân dân Nam Bộ, cán bộ, chiến sĩ ở rừng núi Chiến khu Đ sớm biết tin Chiến thắng Điện Biên Phủ, biết được Hội nghị Genève diễn ra ở Thụy Sĩ. Thật ra, những người yêu nước ở núi rừng miền Đông đã từng nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát từ miền Bắc, Đài Tiếng nói miền Nam phát từ Quảng Ngãi và Đài Nam Bộ kháng chiến phát từ Đồng Tháp Mười. Nhưng đến đầu năm 1951, cụ thể là ngày 25-1-1951, trong khi dò đài phát thanh, một số người kháng chiến ở Chiến khu Đ vô tình bắt được một đài mà nội dung phát sóng rất gần gũi. Đó là Đài Phát thanh Tiếng nói Sài Gòn - Chợ Lớn tự do: “Tiếng nói đoàn kết, tiếng nói đấu tranh của nhân dân đô thành anh dũng”. Đài tiếng nói Sài Gòn - Chợ Lớn tự do được phát sóng từ núi rừng Chiến khu Đ, có lúc phát sóng trên chiếc xe bò di chuyển dưới những tán rừng.

Tiếp nối truyền thống vượt qua gian khổ của những người làm “nhựt trình đỏ”, “phát thanh đỏ” trước đó, ngày 1-2-1962, Đài Phát thanh Giải Phóng - Tiếng nói của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã cất cao tiếng nói chính nghĩa. Trước đó, tháng 10-1960, Thông tấn xã Giải Phóng cũng ra đời phát ra thế giới bản Tuyên ngôn và Chương trình Hành động 10 điểm của Mặt trận.

Sau đó, ở vùng đất “Mã Đà Sơn cước, anh hùng tụ” này, các báo: Giải Phóng, Quân Giải Phóng, Văn nghệ Giải Phóng… cũng lần lượt ra đời ở miền đất “gian lao mà anh dũng”...

100 năm = 36.500 ngày đã qua, đã có biết bao nhà báo yêu nước, cách mạng, cộng sản dấn thân cho vinh quang nghề nghiệp, cho lý tưởng độc lập tự do, hòa bình thống nhất. Trong số họ, có 512 nhà báo liệt sĩ đã ngã xuống ở khắp các chiến trường. Chúng ta vạn lần biết ơn họ, biết ơn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - Người sáng lập, rèn luyện nền báo chí cách mạng Việt Nam. Cũng nhân dịp kỷ niệm 160 năm (1865-2025) báo chí chữ quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh, bằng tư duy biện chứng Mác xít và truyền thống đạo lý nhân nghĩa Việt Nam, chúng ta thành tâm tưởng nhớ và biết ơn Trương Vĩnh Ký và lớp nhà báo Việt Nam tiên khởi đã khơi thông và phát triển nền báo chí chữ quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh.

Mai Sông Bé

Nguồn Đồng Nai: https://baodongnai.com.vn/chinh-tri/202506/ky-niem-100-nam-ngay-bao-chi-cach-mang-viet-nam-21-6-nhut-trinh-do-a8c4963/
Zalo