Kinh tế Việt Nam: 40 năm Đổi mới và kỷ nguyên vươn mình
Hiện nay, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt gần 500 tỷ USD, tăng gần 100 lần so với năm 1986, đứng thứ tư Đông Nam Á và thứ 34 thế giới.
Đại hội VI của Đảng (1986) khởi đầu cho công cuộc Đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế, tạo thế và lực, cùng vị thế quốc tế chưa từng có cho đất nước.
Nền tảng vững chắc
Sau gần 40 năm, về tổng thể, kinh tế Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn và thử thách, không ngừng phát triển cả về lượng và chất, hiệu quả và bền vững hơn.
Các chỉ số và cân đối kinh tế - tài chính vĩ mô của Việt Nam ngày càng được cải thiện, môi trường kinh doanh đáp ứng ngày càng cao hơn các chuẩn mực chung của thế giới. Năm 2024, tăng trưởng GDP đạt 7,09% (vượt mục tiêu 6 - 6,5%), thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới; Quy mô nền kinh tế gần 500 tỷ USD, tăng gần 100 lần so với năm 1986, đứng thứ tư Đông Nam Á và thứ 34 thế giới; Giá trị thương hiệu quốc gia năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193 toàn cầu.
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử trong top 10 của thế giới. Theo báo cáo “Kinh tế số Đông Nam Á năm 2024” do Google - Temasek công bố, năm 2024, quy mô nền kinh tế Internet Việt Nam đạt 36 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2023. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước cả năm 2024 khoảng 807,7 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Cán cân thương mại ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp và ở mức cao gần 25 tỷ USD. Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều ước giảm còn dưới 3%, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng cải thiện.
Việt Nam ngày càng chủ động hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường và tự tin hội nhập toàn cầu sâu, rộng, đầy đủ và hiệu quả hơn.
Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm 2022, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đạt được những tiến bộ lớn nhất trong thập niên qua (tăng 20 bậc), xếp thứ 48/132 quốc gia về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và xếp thứ ba Đông Nam Á; thuộc nhóm các nền kinh tế thu nhập trung bình có tốc độ tăng trưởng hiệu suất đổi mới nhanh nhất. Theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp quốc, Chỉ số phát triển bền vững (SDI) của Việt Nam đã liên tục gia tăng từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020.
Đặc biệt, từ năm 2021, Việt Nam chính thức được xếp vào nhóm các nền kinh tế có “tự do trung bình” (Moderately Free), với điểm tổng thể 61,7 điểm (cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới), là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở châu Á - Thái Bình Dương. Chỉ số hạnh phúc năm 2024, theo xếp hạng của Liên hợp quốc, tăng 11 bậc, đứng thứ 54/143. Quan hệ kinh tế đối ngoại và vị thế quốc tế không ngừng củng cố.
Tính đến hết năm 2024, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới (so với 11 nước năm 1954); có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, 72 quốc gia đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Việt Nam hiện thuộc Top 20 thế giới về thị trường mới nổi và quy mô thương mại, với 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết và triển khai với hơn 60 quốc gia và nền kinh tế lớn bao quát 50-60% GDP và thương mại toàn cầu; thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện, Đối tác chiến lược, Đối tác chiến lược toàn diện với 32 đối tác, trong đó có toàn bộ các nước là Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nền kinh tế G7.
Việt Nam lọt nhóm 15 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI, với lũy kế đến nay có hơn 40,8 nghìn dự án đang hoạt động, tổng số vốn đăng ký khoảng 487 tỷ USD. Đặc biệt, Chính phủ và Tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới NVIDIA vừa ký thỏa thuận thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển và Trung tâm Dữ liệu trí tuệ nhân tạo (AI). Đây là sự kiện mang tính bước ngoặt lịch sử đối với Việt Nam, kỳ vọng đưa nước ta trở thành trung tâm nghiên cứu và phát triển AI hàng đầu ở châu Á.
Theo Tổng cục Thống kê, hiện nay, quy mô nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 35 và thuộc nhóm 20 nước có quy mô thương mại hàng đầu thế giới; bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia được kiểm soát tốt và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới tiếp tục duy trì tín nhiệm quốc gia của Việt Nam với triển vọng “Ổn định”.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam là đại diện Đông Nam Á duy nhất lọt vào top 10 với dự báo tăng trưởng 6,4% từ năm 2024 đến 2029 và sẽ trải qua một giai đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đặt đất nước vào hàng ngũ các nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, mở ra cơ hội lớn trong thu hút FDI và thúc đẩy phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Theo Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam được đánh giá là ngôi sao kinh tế toàn cầu, với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người hằng năm là 5,3% trong 30 năm qua (1990-2021), nhanh hơn bất cứ nền kinh tế nào trong khu vực, ngoại trừ Trung Quốc.
Động lực trong kỷ nguyên vươn mình
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khóa XIII vừa qua thống nhất khẳng định Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với nhiều động lực và cơ hội mới. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, Đại hội XIV của Đảng sẽ đánh dấu sự mở đầu kỷ nguyên vươn mình của Việt Nam, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, thịnh vượng, khi mà mọi người dân Việt Nam, trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh, với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao, mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu…
Trên nền tảng những thành tựu to lớn của 40 năm Đổi mới, động lực hàng đầu để Việt Nam vững vàng bước vào kỷ nguyên mới là thúc đẩy những đổi mới về thể chế, trọng tâm là đổi mới công tác tổ chức, thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả cả hệ thống chính trị. Ngoài ra, động lực còn đến từ củng cố lòng tin, cải thiện vị thế và sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, khai thác hiệu quả cơ hội đầu tư do bộ máy tinh gọn mang lại, từ đó làm tăng kết quả mở rộng đầu tư của doanh nghiệp trong nước, thu hút FDI và các nguồn lực tiềm năng.
Đặc biệt, động lực và cơ hội mới sẽ được mở ra và phát huy tỷ lệ thuận với làm rõ và phân định rõ địa vị pháp lý, trách nhiệm, phân cấp, phân quyền; kiên quyết cắt bỏ sự cồng kềnh, các tầng nấc, đầu mối và các khâu trung gian; vừa phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và vai trò tự quản của địa phương, đơn vị, vừa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo; tăng cường hoàn thiện thể chế, Chính phủ giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát và cải cách tối đa thủ tục hành chính; tạo môi trường đầu tư cởi mở, thân thiện và phục vụ thuận lợi, an toàn, bình đẳng, giảm thiểu mọi chi phí cơ hội cho doanh nhân, doanh nghiệp phát triển và cống hiến; bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân…
Đồng thời, cơ hội cho đất nước trong kỷ nguyên vươn mình còn tới từ việc tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, chuẩn hóa chức danh và xác định vị trí việc làm; tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất; coi trọng sử dụng người có năng lực; nâng cao chất lượng, tinh thần trách nhiệm và kỷ cương công vụ, khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm…
Với thành quả lớn lao của 40 năm Đổi mới, việc tiến hành cuộc cách mạng tinh gọn về tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị, tạo hứng khởi và niềm tin cho doanh nghiệp vừa là mục tiêu, nhiệm vụ, vừa là giải pháp tạo động lực và cơ hội thể chế quan trọng để Việt Nam vững bước trong kỷ nguyên vươn mình.