Kinh tế tư nhân Việt Nam cần được cơ cấu lại
'Khu vực tư nhân phải khẳng định được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu tăng trưởng cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn và có tính chất bền vững hơn', TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam, trao đổi với Kinh tế Sài Gòn.
Động lực chính của tăng trưởng
KTSG: Nền kinh tế Việt Nam đang đặt ra những mục tiêu tham vọng như tăng trưởng cao, bền vững trong hàng chục năm dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhiều ý kiến cho rằng, muốn đạt được điều này, kinh tế tư nhân (không tính khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI) phải là trụ cột và động lực chính. Ông bình luận như thế nào về quan điểm trên?

TS. Lê Duy Bình
- TS. Lê Duy Bình: Ngay từ thời bao cấp, kinh tế tư nhân vẫn lặng lẽ tồn tại dưới những hình thức khác nhau. Tuy nhiên, phải đợi đến khi công cuộc đổi mới bắt đầu và đặc biệt sau khi Luật Doanh nghiệp được ban hành, khu vực này mới vươn lên mạnh mẽ, trở thành một lực lượng quan trọng trong nền kinh tế.
Về quy mô, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân trong nước hiện đóng góp gần 50% GDP của toàn nền kinh tế. Trong đó, bộ phận doanh nghiệp đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP và bộ phận hộ kinh doanh cá thể, hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại và các cơ sở kinh tế, cá nhân kinh doanh khác đóng góp khoảng 40% GDP. Khu vực này tạo việc làm cho khoảng 85% lao động cả nước.
Từ góc độ tổng cầu của nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân đang đóng vai trò quan trọng về đầu tư. Kinh tế tư nhân hiện đang đóng góp 56% tổng đầu tư toàn xã hội. Đây là tỷ trọng rất cao so với mức 28% của khu vực kinh tế nhà nước và 16% của khu vực FDI. Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt khoảng 174 tỉ đô la Mỹ vào năm 2025, đầu tư tư nhân sẽ đóng góp khoảng 96 tỉ đô la hay 55%. Đầu tư công sẽ chỉ đóng góp khoảng 36 tỉ đô la, FDI khoảng 28 tỉ đô la và đầu tư khác khoảng 14 tỉ đô la.
Như vậy, kinh tế tư nhân hiện nay quyết định tới số lượng và chất lượng của hơn 50% GDP của Việt Nam. Chúng ta không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, và cũng không thể chuyển dịch sang nền kinh tế dựa nhiều vào công nghệ, đổi mới sáng tạo nếu như khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm hơn nửa nền kinh tế này không tăng trưởng ở tốc độ cao, không chuyển mình mạnh mẽ để hấp thụ, phổ biến công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Vì vậy, kinh tế tư nhân trong nước cần được coi là trụ cột chính và động lực chính của nền kinh tế, đặc biệt là trong nỗ lực đạt được tốc độ tăng trưởng cao và để nền kinh tế sẽ chuyển dịch mạnh mẽ, vững chắc sang một nền kinh tế thu nhập cao, dựa trên đổi mới sáng tạo, năng suất lao động, giá trị gia tăng cao và hàm lượng tri thức lớn.
KTSG: Trong hơn ba thập niên vừa qua, kinh tế tư nhân không được ưu ái như doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp FDI. Hiện tượng ba nền kinh tế trong một nền kinh tế đã được thẳng thắn đề cập… Vậy tới thời điểm này, liệu kinh tế tư nhân có đủ sức vươn lên để gánh vác sứ mệnh của họ hay không?
- Mô hình tăng trưởng trong thời gian vừa qua đã giúp Việt Nam tận dụng được những lợi thế về lao động giá rẻ, tài nguyên đất đai, vị trí địa lý, khả năng nắm bắt cơ hội từ thương mại quốc tế. Chúng ta đã thu hút được một lượng lớn vốn FDI để giải phóng được nguồn lực trong nước và cùng với quá trình này, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đã gây dựng được nền tảng và dần trưởng thành. Khi khu vực kinh tế tư nhân đã đạt đến một lượng nhất định, chúng ta có thể trông chờ sự thay đổi về mặt chất.
Kinh tế tư nhân hiện nay quyết định tới số lượng và chất lượng của hơn 50% GDP của Việt Nam. Chúng ta không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, và cũng không thể chuyển dịch sang nền kinh tế dựa nhiều vào công nghệ, đổi mới sáng tạo nếu như khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm hơn nửa nền kinh tế này không tăng trưởng ở tốc độ cao, không chuyển mình mạnh mẽ để hấp thụ, phổ biến công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Nói vậy để thấy những gì đã diễn ra trong hơn 30 năm qua cần phải được trân trọng. Khu vực FDI đã bổ trợ tốt cho nền kinh tế. Tuy vậy, nền kinh tế phụ thuộc vào doanh nghiệp FDI sẽ phát sinh các vấn đề như sự hụt hơi của khu vực kinh tế tư nhân, mức đóng góp ngày càng nhỏ hơn của khu vực này trong tăng trưởng kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng hay sự chậm chạp và khó khăn của họ trong quá trình chuyển dịch sang kinh tế tri thức, dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tiềm năng về năng lực nội sinh, tự cường của nền kinh tế chưa được phát huy.
Đây là thời điểm mà chúng ta cần phát huy tối đa nội lực của nền kinh tế, thế nên, khu vực kinh tế tư nhân phải khẳng định được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu GDP cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn và có tính chất bền vững hơn.
Để có một cấu trúc lành mạnh hơn
KTSG: Khu vực kinh tế tư nhân đang phải đối diện với các vấn đề nội tại như đại đa số là doanh nghiệp siêu nhỏ, cơ sở kinh tế trong khu vực phi chính thức chiếm đa số gây ra hạn chế trong tiếp cận nguồn lực, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo… Nghĩa là, bản thân khu vực này cần phải tự cơ cấu lại. Theo ông, sự tự cơ cấu này nên đi theo hướng nào?
- Trong cơ cấu của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam, đang tồn tại thực trạng thiếu vắng doanh nghiệp quy mô vừa (the missing middle). Chúng ta cần điều chỉnh lại cơ cấu này, nâng cao tỷ trọng doanh nghiệp cỡ vừa bên cạnh việc khuyến khích hình thành các tập đoàn, doanh nghiệp lớn thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Nguyên nhân là bởi có nhiều doanh nghiệp cỡ vừa đồng nghĩa với việc có nhiều doanh nghiệp cỡ lớn trong trung hạn và dài hạn, và họ sẽ tận dụng được những lợi thế về quy mô (economy of scale) và có năng suất cao hơn. Các doanh nghiệp cỡ vừa và cỡ lớn sẽ có năng lực và cơ hội tốt hơn trong huy động nguồn lực vốn, công nghệ và con người, để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, hợp tác với doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước, đồng thời, có khả năng tự đầu tư vào những dự án quan trọng, mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cỡ vừa và cỡ lớn thường có năng lực quản trị công ty tốt hơn, khả năng huy động nguồn lực cao hơn, và nhờ đó họ sẽ có khả năng đầu tư vào nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, thu hút nhân lực chất lượng cao, cải thiện phương thức quản trị… để nâng cao chất lượng. Nhiều doanh nghiệp mạnh sẽ tạo nên nền kinh tế mạnh, tự lực tự cường, bao trùm và có sức chống chịu tốt với những biến động khó lường của thương mại toàn cầu.
Để quá trình tái cơ cấu này diễn ra hiệu quả, cách thức tốt nhất là tạo ra môi trường kinh doanh an toàn, ít rủi ro về pháp lý, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế. Chúng ta cần có một môi trường kinh doanh bao dung với doanh nghiệp, có tính kiến tạo cho sự phát triển của doanh nghiệp, khuyến khích mạnh mẽ việc đầu tư mạo hiểm, khởi nghiệp kinh doanh. Có như vậy doanh nghiệp mới sẵn sàng bỏ vốn đầu tư, mạnh dạn sử dụng đòn bẩy tài chính từ tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, huy động vốn từ thị trường chứng khoán và huy động các nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế để mở rộng quy mô, đầu tư vào đổi mới sáng tạo, nghiên cứu sản phẩm mới, áp dụng mô hình kinh doanh mới hoặc dấn thân vào những lĩnh vực mới. Môi trường kinh doanh an toàn, quy định pháp lý ít rủi ro và có tính tiên liệu cao còn kích thích hoạt động đầu tư của xã hội, đặc biệt là đầu tư mạo hiểm dựa trên những quy định thử nghiệm có kiểm soát cần được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật và trong cách ứng xử của các cơ quan quản lý đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Bên cạnh môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý, chúng ta cần cơ cấu lại hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp theo nguyên tắc của thị trường. Đó là các trung tâm nghiên cứu, đào tạo, đổi mới sáng tạo và đầu tư mạo hiểm, trường đại học, trường dạy nghề, các định chế về tài chính - tín dụng cho khởi nghiệp, phát triển các thị trường mới như thị trường khoa học công nghệ, sản phẩm trí tuệ… Hệ sinh thái này cần được vận hành trơn tru để cung ứng nhân lực và công nghệ. Hệ thống pháp luật sẽ bảo vệ mạnh mẽ quyền tài sản vật chất và phi vật chất, tạo môi trường kết nối, hợp tác nghiên cứu, kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài.
Tất cả những điều đó giúp doanh nghiệp tư nhân có thể yên tâm trưởng thành, nền kinh tế có nhiều hơn những doanh nghiệp cỡ vừa và cỡ lớn, tạo dựng một cấu trúc lành mạnh hơn của khu vực kinh tế tư nhân.
KTSG: Hiện tại, Việt Nam đang có chủ trương đặt hàng doanh nghiệp triển khai các dự án lớn. Ông bình luận như thế nào về động thái này? Đây có phải là cơ hội để doanh nghiệp tư nhân tăng trưởng về quy mô và chất lượng?
- Cơ chế đặt hàng là cơ chế tốt để có thêm những doanh nghiệp tư nhân cỡ vừa và cỡ lớn nếu chúng ta có định hướng và chính sách phù hợp. Nguyên tắc đầu tiên là minh bạch và công bằng, trao cơ hội cạnh tranh bình đẳng cho doanh nghiệp trong nước dựa trên năng lực vốn và công nghệ, đi kèm với đó là áp lực về sản phẩm đầu ra, cả về chất lượng và tiến độ, đáp ứng đúng kỳ vọng của Chính phủ và người dân.
Việc giám sát dự án cũng phải dựa trên nguyên tắc của thị trường, kết quả đầu ra được đánh giá theo chuẩn mực chung của thế giới. Cùng với đó, cần có thêm tiêu chí về sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ hơn vào chuỗi cung ứng, tỷ lệ nội địa hóa… Dù vậy, các tiêu chí này cần được đặt ra ở mức độ phù hợp với năng lực và trình độ của doanh nghiệp, thúc đẩy họ cố gắng đạt được kết quả tốt hơn. Chúng ta không nên cứng nhắc, dựng lên những rào cản không thể vượt qua khiến doanh nghiệp trong nước rút lui ngay từ đầu, nhường hết cơ hội cho doanh nghiệp FDI hoặc các nhà thầu nước ngoài. Các tiêu chí về phải sử dụng nhà thầu phụ trong nước đối với các doanh nghiệp FDI hay nhà thầu nước ngoài, hay phải sử dụng nhà thầu phụ là doanh nghiệp nhỏ và vừa khi các doanh nghiệp lớn trúng thầu cũng nên được cân nhắc áp dụng.
Khi doanh nghiệp tư nhân được trao cơ hội, họ sẽ có nhiều cách khác nhau để huy động nhân lực, vật lực, tài chính, công nghệ trong và ngoài nước, nâng cao năng lực quản trị, kéo cả khối kinh tế tư nhân tiến lên một cách vững chắc.
KTSG: Theo thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ đang xin ý kiến để ban hành một nghị quyết riêng về phát triển kinh tế tư nhân. Ông kỳ vọng về đột phá nào trong nghị quyết này?
- Tôi mong rằng một nghị quyết như vậy sẽ giải quyết được các vấn đề về môi trường kinh doanh trên tinh thần doanh nghiệp được phép làm những điều pháp luật không cấm. Nghị quyết sẽ đẩy mạnh hơn nữa tinh thần khởi nghiệp, bảo vệ mạnh mẽ hơn nữa doanh nhân, doanh nghiệp khi họ triển khai những ý tưởng kinh doanh mà chưa có tiền lệ song pháp luật không cấm, từ đó sẽ thúc đẩy tinh thần dám chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào đổi mới sáng tạo thông qua nhiều cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hơn nữa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật.