Kiên định, vận dụng, bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào Nhân dân đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bài viết làm rõ việc tiếp tục kiên định, vận dụng, bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân
Truyền thống "Lấy dân làm gốc" của những yếu tố dân chủ ở Việt Nam, đã hình thành trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Tiếp thu, vận dụng sáng tạo quan điểm dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, đã có nhận thức sâu sắc về vấn đề dân chủ và vai trò của việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Mặc dù, Chủ tịch Hồ Chí Minh không viết riêng một tác phẩm nào bàn sâu về dân chủ, nhưng Người rất quan tâm và trong nhiều bài viết đã đề cập những ý nghĩa sâu xa khác nhau, theo hướng tiếp cận về sự phát triển tư duy dân chủ. Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chính là con người, gồm con người cá thể và con người cộng đồng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có người dân trừu tượng. Bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói đến người dân lịch sử, cụ thể.
Tùy theo từng thời điểm lịch sử, gắn với hoàn cảnh cụ thể, Người dùng những cụm từ khác nhau để chỉ con người, người dân và xem xét nó trong những bình diện, những chiều khác nhau của mối quan hệ xã hội. Song, bao giờ Người cũng tâm niệm: Nhân nghĩa là nhân dân, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân sâu sắc như vậy, nên mọi suy nghĩ, hành động của Người đều hướng về dân, đều nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân lao động.
Điểm cốt lõi trong văn hóa dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: làm điều có lợi cho dân, tránh điều có hại tới dân. Triết lý dân chủ thấm nhuần tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là triết lý thân dân (gần dân, vì dân) và chính tâm (cần, kiệm, liêm, chính, chống chủ nghĩa cá nhân). Trọng dân đi liền với trọng pháp, đề cao giá trị con người và thực hiện các quyền cơ bản của con người đi liền với đề cao pháp luật và pháp quyền. Theo Người, dân chủ, thứ nhất, dân là chủ: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ"1; thứ hai, dân chủ là dân làm chủ: "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do dân làm chủ..."2; thứ ba, dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về dân: "Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với chính phủ"3.
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ, trong đó dân làm chủ mới có giá trị thực tế và quyết định, giá trị của dân chủ không hoàn toàn chỉ xác định vị trí là chủ của dân. Chỉ khi vị trí là chủ của dân được xác định thì vai trò làm chủ của dân mới được xác lập, tức là dân chủ qua các mặt hoạt động thực tiễn. Nói dân chủ là dân làm chủ đã bao hàm ý nghĩa dân là chủ trong đó.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân không chỉ là gốc, mà Đảng và Nhà nước phải “Lấy dân làm gốc”, “gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”, phải chăm sóc cho cái gốc ấy bền vững. Để dân vững mạnh, Người yêu cầu phải chăm lo, ưu tiên cho các tầng lớp nhân dân lao động. Họ là số đông, có lực lượng, có khả năng và giữ vị trí chủ yếu tạo ra của cải cho xã hội, bảo vệ Tổ quốc.
Do vậy, mọi lợi ích là vì dân, giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào cho hợp lý, cho lợi dân, để tập hợp, đoàn kết Nhân dân. Có thể nói, quan điểm “Lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ý thức đạo đức đã phát triển thành ý thức chính trị, thành nguyên tắc pháp trị. Đã là nguyên tắc pháp trị thì mọi thành viên trong xã hội. Xét trên phương diện lợi ích thì dân làm gốc cũng thống nhất với dân làm chủ.
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ không chỉ là động lực chiến đấu giành lại quyền cơ bản là độc lập dân tộc, mà dân chủ còn là khát vọng vươn lên để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Theo Người, độc lập của nước phải gắn liền với hạnh phúc, tự do của dân. Người chỉ rõ, nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì tự do độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Nước độc lập do dân giành lại thì không có lý do gì dân không được làm chủ; làm chủ trong quan hệ dân - nước, trong quan hệ sở hữu.
Quan niệm dân chủ, nghĩa là dân làm chủ thể hiện được tính chủ động của chủ thể dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân phải chủ động giành lấy quyền làm chủ xã hội, đánh tan thực dân, giải phóng dân tộc, giành lại thống nhất và độc lập, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ là một quan niệm cô đọng, súc tích, vừa khoa học, hiện đại vừa kế thừa phát triển những hiểu biết của nhân loại về dân chủ, phản ánh đúng thực chất của dân chủ ở thời đương đại.
Cần phải khẳng định lại rằng, chiều sâu, cội nguồn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ bắt nguồn từ quan niệm đúng đắn của Người về vai trò của Nhân dân. Theo Người, dân là gốc của nước, của cách mạng: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó vạn lần dân liệu cũng xong"; "Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được, Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng không nên".
Bởi vậy, dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Dân chủ đối lập với quan liêu: "chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ". Người còn nói rõ, trong một nước dân chủ ai ai cũng có quyền tự do thảo luận, tranh luận để cùng tìm ra chân lý, khi chân lý đã tìm thấy rồi thì quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ cho thấy, Người coi mục tiêu phấn đấu, xây dựng chế độ mới là hướng tới Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, để phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân, tiết kiệm sức dân. Người tin vào sức mạnh dân chủ là sức mạnh của Nhân dân.
Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi tới kết luận: "thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn...". Quan niệm và thái độ đối với dân là một tiêu chí cơ bản để đánh giá giá trị của một học thuyết dân chủ. Cái đặc sắc, cái đã đưa tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vượt lên trên tư tưởng dân chủ của các nhà nho duy tân cùng thời, mang tầm thời đại chính ở quan điểm dân vừa là chủ vừa làm chủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam với việc nhận thức về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai mục tiêu dân tộc và dân chủ gắn bó chặt chẽ với nhau từ buổi đầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nội dung dân chủ trong giai đoạn cách mạng trước chủ yếu là đem lại ruộng đất cho dân cày, thành phần đông đảo nhất trong dân cư. Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thành công, Đảng ta lãnh đạo Nhân dân chuyển sang giai đoạn cách mạng mới - cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Làm cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân một cách đầy đủ hơn; xây dựng một xã hội mới công bằng, dân chủ và văn minh. Với quan điểm đúng đắn ấy, cho nên Đảng ta luôn coi trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào dân nên đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc thống nhất đất nước và thực hiện thành công công cuộc đổi mới đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phát triển ở một tầm cao mới.
Việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là thuộc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta coi việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới. Trong bốn bản Hiến pháp của nước ta, trước sau vẫn khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Điều này không chỉ làm sáng tỏ về mặt lý luận, mà còn thể hiện ở cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước trên thực tiễn sao cho mục đích về một nhà nước của dân, do dân và vì dân trở thành hiện thực.
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta, Đại hội mở đầu của sự nghiệp đổi mới, đưa ra quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, đổi mới nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên tắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn minh nhân loại, bảo đảm quá trình đổi mới diễn ra đúng nguyên tắc tập trung dân chủ...
Nghị quyết Đại hội VI (1986) nêu rõ: Tiếp tục phát huy những thành tựu về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nhấn mạnh: "Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ" và "Toàn bộ tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân"4; "Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới"5.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) tiếp tục khẳng định: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của Nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở6.
Để đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã đề ra một trong những nhiệm vụ là: "thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền người dân giám sát tổ chức và cán bộ cơ sở, thay thế người không đủ tín nhiệm"7. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục chỉ rõ: “dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân”8.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân đạt được nhiều thành tựu to lớn. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật: gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân, năng lực làm chủ tham gia quản lý xã hội của Nhân dân, ý thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ.
Quyền làm chủ của Nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền của con người mà nước ta đã ký kết.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những yếu kém, việc nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân còn hạn chế. Trước tình hình đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ để tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định: "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến.
Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân"9. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Đảng ta còn yêu cầu "Phát huy dân chủ phải gắn liền với kỷ cương, tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân"10.
Kiên trì và sáng tạo tiến hành công cuộc mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII (2016 - 2021), việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân của đất nước ta đã đạt được những kết quả tích cực và tương đối toàn diện. Đời sống sinh hoạt chính trị, xã hội ngày càng được mở rộng, nhận thức về quyền làm chủ của Nhân dân được nâng cao, thu hút Nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, giám sát hoạt động của chính quyền, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng tại cơ sở.
Nhờ phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân mà lề lối, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ cơ sở đã có nhiều thay đổi theo hướng gần dân và phục vụ Nhân dân tốt hơn, đã góp phần mang lại hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa và bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở cơ sở, tạo được sự đồng thuận lớn trong Nhân dân.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu to lớn của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế nhằm mục tiêu: “Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”11. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) yêu cầu: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt phương châm “Dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”... Song để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ vai trò của các chủ thể trong hệ thống chính trị: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đưa ra định hướng để phát huy dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, giai đoạn 2021 - 2030: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”12. Với việc coi Nhân dân là chủ thể của dân chủ xã hội chủ nghĩa và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong thời kỳ đổi mới thể hiện tư duy lý luận hết sức đúng đắn và nhạy bén của Đảng ta, đó chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, kế thừa truyền thống dân chủ của dân tộc, đồng thời tiếp thu, chọn lọc tinh hoa dân chủ trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Tiếp tục kiên định, vận dụng, bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Một là, tiếp tục phát huy vai trò của các chủ thể trong hệ thống chính trị trong xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Dân chủ và hệ thống chính trị có mối quan hệ biện chứng, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa mục đích và phương tiện, giữa nguyên nhân và kết quả. Xét đến cùng đổi mới hệ thống chính trị không chỉ là mục đích tự thân mà vì dân thực hiện dân chủ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định: "Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Muốn vậy phải mở rộng dân chủ vì “mở rộng dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn” (Chủ tịch Hồ Chí Minh). Mở rộng dân chủ là để đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, đồng thời đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là để phát huy dân chủ, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân lao động. Sẽ không có dân chủ khi hệ thống chính trị thiếu trong sạch, vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: "Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân".
Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đòi hỏi cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân.
Hai là, tiếp tục nâng cao dân trí và năng lực thực hành dân chủ cho Nhân dân, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong tình hình mới, để có một nền văn hóa chính trị lành mạnh, phản ánh đúng bản chất, trình độ dân chủ, không chỉ đòi hỏi phẩm chất, năng lực của người lãnh đạo, quản lý mà bản thân đối tượng được lãnh đạo, quản lý - tức là Nhân dân - cũng phải có trình độ, năng lực thực hành dân chủ. Năng lực thực hành dân chủ của Nhân dân phụ thuộc rất nhiều ở trình độ hiểu biết, nhận thức xã hội và trình độ văn hóa nói chung. Thiếu nó thì Nhân dân sẽ không biết quyền và nghĩa vụ của mình, chắc chắn sẽ có những hành động tự phát, vượt ra ngoài giới hạn của cả dân chủ và pháp luật.
Để làm được điều đó, Đảng, Nhà nước phải tạo ra cơ chế, chính sách, luật pháp thích hợp, mặt khác, người dân phải phấn đấu, rèn luyện, phải học dân chủ, phải nâng cao trình độ hiểu biết về dân chủ, phương pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ. Có như thế, Nhân dân mới có quyền dân chủ thực sự, tránh tình trạng dân chủ chung chung, dân chủ hình thức. Vì vậy, cần phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo ở mọi cấp học, bậc học trong toàn hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, dân trí để người dân nắm rõ các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm công dân của mình, tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước.
Trong bối cảnh nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thời cơ thuận lợi thì cũng có nhiều thách thức, nguy lớn do mặt trái của các vấn đề đó gây ra. Chính vì vậy, cùng với việc nâng cao dân trí và năng lực thực hành dân chủ cho Nhân dân thì cũng cần phải đi đôi với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Thực hiện pháp chế nghiêm minh là yếu tố bảo đảm, bảo vệ quyền dân chủ của Nhân dân được thực hành thực chất trong thực tiễn; đồng thời, thực hành dân chủ của Nhân dân được mở rộng và phát huy sẽ càng làm cho pháp chế được tăng cường và kỷ cương trong xã hội được tôn trọng. Kỷ cương xã hội là kết quả và biểu hiện ra bên ngoài của pháp chế. Hệ thống thể chế, nhất là hệ thống pháp luật được xây dựng ngày càng đầy đủ, hoàn thiện.
Để nâng cao dân trí và năng lực thực hành dân chủ cho Nhân dân, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cần phải tiếp tục quán triệt, thực hiện triệt để giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Cần tiếp tục, nâng cao nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Phát huy dân chủ đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội.
Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu dân chủ. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của Nhân dân. Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.434.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.452.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.66
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr.19.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr.90.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.22.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.84.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9,10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.169, 170.
11,12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t1, tr.112, 118