Hợp tác dựa trên tin cậy và tầm nhìn chung sẽ tạo nền tảng cho phát triển bền vững
Trước thềm'Hội nghị quốc tế lần thứ V về hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, các đối tác vì sự phát triển thịnh vượng và bền vững' được tổ chức ngày 4/12 tại Hà Nội, bà Vũ Thị Quỳnh Hoa, Giám đốc quốc gia tổ chức Stichting Oxfam (viết tắt là Oxfam) tại Việt Nam đã chia sẻ về những thành quả, định hướng hợp tác và đa dạng hóa nguồn viện trợ cho phát triển bền vững tại Việt Nam.
Bà đánh giá thế nào về sự đồng hành, hỗ trợ của các đối tác Việt Nam trong quá trình triển khai các chương trình, dự án?

Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa, Giám đốc quốc gia tổ chức Oxfam tại Việt Nam. (Ảnh: NVCC)
Chúng tôi đánh giá cao sự hỗ trợ và đồng hành của của Ủy ban Công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (COMINGO), Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (VUFO), Ban Điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM) cùng các Bộ, ngành có liên quan trong việc hướng dẫn thực hiện các thủ tục đăng ký và tổ chức triển khai hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam.
Các cơ chế trao đổi và chia sẻ thông tin minh bạch, kịp thời, cùng các đối thoại và tham vấn thường xuyên về định hướng phát triển của Việt Nam từ phía COMINGO/VUFO/PACCOM đã giúp các tổ chức phi chính phủ nước ngoài có cơ sở tiếp tục huy động nguồn lực và ý tưởng mới, phù hợp với ưu tiên quốc gia và bối cảnh địa phương, phản ánh mong muốn của người dân khi Việt Nam bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Quan hệ đối tác dựa trên sự tin tưởng và chia sẻ tầm nhìn chung về một Việt Nam bao trùm, bền vững và thịnh vượng sẽ tiếp tục là kim chỉ nam định hướng quan hệ hợp tác giữa các tổ chức phi chính phủ nước ngoài với Chính phủ và người dân Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Tổ chức Oxfam cũng đánh giá cao quan hệ hợp tác chặt chẽ và hiệu quả, cũng như những hỗ trợ từ các cấp chính quyền nơi Oxfam triển khai hoạt động tại địa phương. Những hỗ trợ và phối hợp hiệu quả qua hàng thập kỷ đã giúp Oxfam và các đối tác Việt Nam tiếp tục thực hiện tốt các dự án nhân đạo và phát triển, đóng góp vào mục tiêu giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế – xã hội bao trùm của Việt Nam.
Oxfam mong muốn thúc đẩy quan hệ đối tác này thế nào trong thời gian tới?
Trong giai đoạn chuyển đổi về ưu tiên và phương thức thực hiện các chương trình, dự án phát triển, COMINGO/VUFO/PACCOM đã phối hợp chặt chẽ với các đối tác địa phương để tháo gỡ khó khăn liên quan đến đăng ký hoạt động, gia hạn giấy đăng ký, phê duyệt tiếp nhận viện trợ và thủ tục tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế. Vai trò của PACCOM đặc biệt quan trọng trong kết nối, hướng dẫn, hỗ trợ thủ tục và tạo điều kiện thuận lợi, giúp các chương trình và dự án được triển khai liên tục, không gián đoạn.
Chúng tôi mong đợi và tin tưởng vào tương lai hợp tác với COMINGO/ VUFO/PACCOM, các Bộ, ngành, các cấp chính quyền, doanh nghiệp và người dân Việt Nam. Các điều chỉnh dự kiến trong khung pháp lý như Nghị định số 58/2022/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam, Nghị định số 80/2020/NĐ-CP về quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại, cùng Quyết định số 06/2020/QĐ-TTg về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế được kỳ vọng sẽ đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian xử lý, tạo thuận lợi cho việc huy động và triển khai các nguồn lực trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện những cải cách mạnh mẽ.
Để phát huy vai trò của ngoại giao nhân dân trong việc tăng cường hiểu biết, củng cố sự tin cậy và mở rộng cơ hội hợp tác giữa các tổ chức quốc tế với đối tác Việt Nam, phù hợp với đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác và phát triển của Việt Nam, chúng tôi mong muốn tiếp tục đồng hành trong các cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu trực tuyến; tổ chức các diễn đàn và trao đổi định kỳ để chia sẻ thông tin và kinh nghiệm giữa các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và cộng đồng hưởng lợi tại địa phương.

Tổ chức Oxfam hỗ trợ các dự án sản xuất lúa bền vững, phát thải thấp và thích ứng biến với đổi khí hậu tại Việt Nam. (Nguồn: Oxfam)
Những hoạt động này sẽ góp phần tăng cường hiểu biết, nâng cao hiệu quả phối hợp và hỗ trợ triển khai dự án bền vững hơn, đồng thời tạo nền tảng cho quan hệ đối tác lâu dài và hiệu quả.
Đâu là một số mô hình dự án hiệu quả, tiêu biểu của tổ chức trong giai đoạn 2020-2025, thưa bà?
Từ những năm 1990, Oxfam đã đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam, các đối tác xã hội, khối doanh nghiệp và người dân thông qua nhiều chương trình, dự án, hoạt động hợp tác nghiên cứu và chia sẻ kinh nghiệm quốc tế. Trong bối cảnh Chính phủ Việt Nam đặt ưu tiên cho phát triển bao trùm và bền vững, Oxfam tiếp tục cam kết đồng hành và hỗ trợ các mục tiêu quốc gia của Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và nâng cao năng lực cộng đồng.
Xác định nông nghiệp là một thế mạnh xuất khẩu và là trụ cột của chiến lược an ninh lương thực quốc gia, Oxfam phối hợp với các đối tác thực hiện chương trình Phát triển chuỗi giá trị lúa gạo bền vững, phát thải thấp và thích ứng biến với đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa bền vững và hỗ trợ Việt Nam đạt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.
Để hỗ trợ mở rộng thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thông qua tăng cường năng lực tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững, Oxfam đã triển khai nhiều sáng kiến quan trọng. Tiêu biểu như hỗ trợ áp dụng chứng chỉ quốc tế FSC về quản lý rừng bền vững, thúc đẩy mô hình chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES), hướng dẫn các thực hành nuôi trồng và chế biến tôm, nghêu theo tiêu chuẩn ASC xuất khẩu thị trường châu Âu, và thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và năng lượng tái tạo trong chuỗi nông nghiệp.
Nhằm hỗ trợ các đối tác Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư có trách nhiệm và dịch chuyển công bằng, Oxfam triển khai nhiều sáng kiến thúc đẩy áp dụng các tiêu chuẩn Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) trong một số ngành trọng điểm.
Oxfam đồng hành cùng với các ngân hàng thương mại lồng ghép tiêu chí ESG vào chính sách tín dụng, góp phần xây dựng hệ thống tài chính minh bạch, bền vững và bao trùm. Trong ngành cao su, Oxfam phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam thúc đẩy mô hình trồng và xuất khẩu cao su bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế. Ở cấp cộng đồng, Oxfam hỗ trợ phát triển du lịch sinh thái kết hợp với nông nghiệp truyền thống và phát huy tri thức bản địa.
Trong câu chuyện phát triển bền vững và bao trùm tại Việt Nam, bình đẳng giới luôn giữ vai trò then chốt. Chúng tôi áp dụng cách tiếp cận đa chiều, phối hợp cùng các đối tác thúc đẩy giải pháp lồng ghép bình đẳng giới với đổi mới sáng tạo, phát triển mô hình kinh tế xanh do phụ nữ làm chủ, mở rộng cơ hội đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng, đồng thời hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu.

Oxfam phối hợp cùng các đối tác thúc đẩy giải pháp lồng ghép bình đẳng giới với đổi mới sáng tạo, phát triển mô hình kinh tế xanh do phụ nữ làm chủ. (Nguồn: Oxfam)
Theo bà, những yếu tố nào đã góp phần tạo nên thành công của các chương trình và dự án?
Sự thành công của các chương trình và dự án nêu trên là kết quả của đóng góp từ nhiều bên, nhưng đều chia sẻ ba yếu tố then chốt quyết định tính bền vững.
Thứ nhất là phát huy vai trò chủ động của cộng đồng. Các mô hình thành công tạo cơ chế để người dân, đặc biệt là phụ nữ và các nhóm yếu thế, tham gia tích cực và thực chất vào quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát sáng kiến. Sự tham gia này không chỉ tạo sự đồng thuận mà còn đảm bảo duy trì tác động lâu dài sau khi chương trình/dự án kết thúc.
Thứ hai là tiếp cận theo hướng thị trường, tăng cường khả năng chống chịu và tôn trọng tri thức/văn hóa địa phương. Trong bối cảnh rủi ro thiên tai và các cú sốc mới gia tăng, các dự án cần nâng cao năng lực thích ứng, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời tăng cường tiếp cận thị trường. Các can thiệp cũng cần song hành với tri thức và văn hóa địa phương, vốn là những cơ chế nội sinh phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và tự nhiên của từng vùng.
Thứ ba là kết nối mô hình địa phương với chính sách/chương trình mục tiêu quốc gia và kế hoạch địa phương nhằm bảo đảm tính bền vững. Các mô hình thành công được thiết kế gắn với các chương trình mục tiêu quốc gia và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội địa phương, nhằm tận dụng nguồn lực dài hạn và kết nối với các hỗ trợ sẵn có như tín dụng ưu đãi hoặc đào tạo nghề. Khi các sáng kiến quy mô nhỏ được chứng thực về hiệu quả và được thể chế hóa, tác động bền vững sẽ càng được củng cố.
Bà đánh giá về xu hướng mở rộng/đa dạng hóa đối tượng vận động nguồn viện trợ cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay?
Hiện nay, do áp lực từ các chính phủ cũng như sự dịch chuyển giá trị của người tiêu dùng toàn cầu sang hướng bền vững, các tập đoàn và doanh nghiệp nước ngoài đã có những thay đổi đáng kể, nâng cao mức độ tuân thủ đối với các tiêu chuẩn quốc tế về kinh doanh có trách nhiệm và bền vững. Xu hướng này khởi nguồn từ các quốc gia phát triển với các quy định pháp luật nghiêm ngặt, sau đó dần lan tỏa sang các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng ở những quốc gia nơi các doanh nghiệp FDI đặt nhà máy và cơ sở sản xuất.
Việc tăng cường tuân thủ và triển khai các sáng kiến ESG là bước đi tích cực nhằm góp phần nâng cao quản trị doanh nghiệp, minh bạch thông tin và đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, xã hội trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Đồng thời, nguồn lực CSR (Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp) sẽ trở thành một kênh huy động mới mang đến cách tiếp cận, nguồn lực và hỗ trợ kỹ thuật để đồng hành cùng các tổ chức nhà nước và ngoài nhà nước.

Lễ khởi động dự án quốc tế thúc đẩy tài chính xanh và bền vững tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. (Nguồn: Oxfam)
Tuy nhiên, việc chuyển giao nguồn lực từ các sáng kiến CSR và ESG vẫn đối mặt với nhiều thách thức do cơ chế phối hợp giữa doanh nghiệp, nhà nước và các tổ chức phi chính phủ đang dần được hoàn thiện; năng lực thực hiện các dự án phát triển như lập kế hoạch có sự tham gia, đo lường và báo cáo tác động còn khác biệt giữa các bên; hoặc do yêu cầu cần hài hòa các mục tiêu khi doanh nghiệp thực hiện CSR/ESG để các sáng kiến được thực hiện thực chất, đến đúng nơi, đúng nhu cầu và tạo được tác động bền vững về mặt xã hội và môi trường.
Các thách thức này cũng là cơ hội để đối thoại và tăng cường hợp tác giữa các bên, tối đa hóa kinh nghiệm hàng thập kỷ của các tổ chức xã hội trong phối hợp cùng Nhà nước và cộng đồng khi thực hiện các dự án và chương trình phát triển.
Tôi cho rằng các tổ chức xã hội có thể đóng vai trò cầu nối trong hệ sinh thái phát triển, thúc đẩy chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng cốt lõi, đồng thời bảo đảm sự tham gia, tiếng nói và tính chủ thể của người dân, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương.
Quan hệ đối tác đa bên giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội trong xây dựng, triển khai và giám sát các chương trình CSR/ESG sẽ tạo nên một hệ sinh thái hợp tác minh bạch, công bằng và bao trùm. Cách tiếp cận này không chỉ thúc đẩy đổi mới, chia sẻ nguồn lực và nâng cao năng lực mà còn tạo ra tác động lâu dài và bền vững cho cộng đồng và xã hội.































