Hơn 1 triệu tỷ đồng bơm vào nền kinh tế, doanh nghiệp không còn 'đói' vốn?
Các ngân hàng đã 'bơm' 1 triệu tỷ đồng ra nền kinh tế phản ánh khả năng phục hồi của doanh nghiệp, và điều kiện vay vốn cũng thuận lợi hơn. Tuy nhiên, hiện nay, ngân hàng ưu tiên cho vay những khách hàng sở hữu tài sản thế chấp có giá trị cao và hồ sơ tín dụng tốt, khiến các doanh nghiệp nhỏ, thiếu tài sản bảo đảm gặp bất lợi lớn trong việc tiếp cận vốn.
Thống kê mới nhất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, tính đến cuối tháng 5, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 6,52%, cao hơn đáng kể so với mức 2,41% cùng kỳ năm 2024.
Dư nợ tín dụng tăng kỷ lục
Để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ngành ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 khoảng 16%, tương đương "bơm" thêm ít nhất 2,5 triệu tỷ đồng vào nền kinh tế. Theo NHNN, ước tính trong 5 tháng đầu năm, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đã tăng thêm hơn 1 triệu tỷ đồng, lên hơn 16,6 triệu tỷ đồng. Đây là mức tăng dư nợ kỷ lục trong 5 tháng đầu năm.
Tăng trưởng tín dụng toàn ngành 5 tháng cao gấp 2,7 lần so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ riêng 10 ngày cuối tháng 5 đã tăng tới 0,93%. Tuy nhiên, tín dụng đang có sự phân hóa rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng. Các ngân hàng chuyên phục vụ doanh nghiệp sản xuất tăng trưởng tín dụng vẫn tích cực, nhưng ở mức xấp xỉ trung bình ngành. Còn nhóm có thế mạnh về bất động sản, đầu tư công đang tăng trưởng tín dụng cao hơn mặt bằng chung.
Đáng chú ý, tín dụng đang tăng đều tại các địa phương. Chẳng hạn, theo số liệu thống kê từ NHNN chi nhánh khu vực 14 (Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu) cho thấy, đến cuối tháng 5/2025, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng trên địa bàn ước đạt 403.850 tỷ đồng, tăng 4,7% so với cuối năm 2024, với hơn 1,07 triệu khách hàng hiện còn đang dư nợ. Trong đó, dư nợ cho vay ngành nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 42.700 tỷ đồng, chiếm 10,57% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngành công nghiệp và xây dựng 83.600 tỷ đồng, chiếm 20,7%; dư nợ cho vay ngành thương mại, dịch vụ khoảng 277.550 tỷ đồng, chiếm 68,73%.

Tính đến cuối tháng 5, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 6,52%, cao hơn đáng kể so với mức 2,41% cùng kỳ năm 2024.
Cập nhật trong báo cáo chiến lược tháng 6, Bộ phân Phân tích của CTCP Chứng khoán Sài Gòn Hà Nội (SHS Research) cho biết tăng trưởng tín dụng trong 5 tháng đầu năm nay là mức tăng nổi bật so với cùng kỳ các năm trước và là một trong những điểm sáng quan trọng giúp hấp thụ phần nào lượng tiền dư thừa.
Các chuyên gia đánh giá, mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% trong năm 2025 là rất khả thi bởi ngành ngân hàng đang triển khai nhiều chương trình tín dụng ưu đãi dành cho lĩnh vực nông lâm thủy sản, nhà ở xã hội, công nghệ, dự án hạ tầng chiến lược…
Đáng chú ý, lãi suất cho vay đang ở mức thấp hỗ trợ cho tăng trưởng tín dụng. Cụ thể, vốn vay ngắn hạn có lãi suất chỉ khoảng 5%/năm, còn vốn trung dài hạn cũng chỉ quanh 7%/năm, mức được xem là "vốn rẻ".
"Lãi suất thấp không chỉ hỗ trợ ngân hàng đẩy mạnh tín dụng mà còn tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư mới, từ đó lan tỏa hiệu ứng tích cực tới toàn nền kinh tế. Trong 5 tháng đầu năm, mặt bằng lãi suất thấp là yếu tố then chốt giúp các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã giảm chi phí vốn và mở rộng hoạt động", một chuyên gia cho hay.
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nhận định, mặt bằng lãi suất thấp là động lực chính thúc đẩy nhu cầu vay vốn, đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp đang trên đà phục hồi hoạt động sản xuất – kinh doanh. Đây cũng là kết quả của quá trình cắt giảm lãi suất, đa dạng hóa sản phẩm tín dụng và cải cách thủ tục nhằm đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp.
Cẩn trọng kiểm soát rủi ro
SHS Research cũng lưu ý mặt bằng lãi suất huy động đang có sự phân hóa giữa các ngân hàng, đặc biệt ở các ngân hàng nhỏ có nhu cầu huy động gấp, trong khi hệ thống vẫn đang “ngủ quên” trong tình trạng dư thừa thanh khoản ngắn hạn.
Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất hiện đã rơi về vùng 2,71%, mức thấp nhất kể từ đầu năm – phản ánh tình trạng thanh khoản hệ thống đang dư thừa rõ rệt.
"Điểm đáng chú ý là dù lãi suất ở vùng thấp này đã kéo dài nhiều tuần, NHNN không còn chủ động hút ròng qua tín phiếu, cho thấy chủ đích "buông lỏng lượng" để hỗ trợ thị trường, nhất là khi tín dụng phục hồi tích cực", báo cáo của SHS Research nêu.
Theo SHS Research, để thanh khoản dôi dư trong thời gian dài mà không có biện pháp trung hòa, rủi ro lệch pha chính sách và tạo méo mó trong định giá tài sản là điều cần được lưu ý.
Báo cáo cập nhật ngành ngân hàng quý I năm nay do WiGroup thực hiện đánh giá bức tranh ngành ghi nhận những điểm sáng về tăng trưởng tín dụng và lợi nhuận, nhưng cũng bộc lộ áp lực rõ rệt từ chất lượng tài sản và thu nhập lãi.
Ngoài ra, mặt trái của đà tăng trưởng tín dụng là rủi ro chất lượng nợ gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ toàn ngành đã lên tới 2,16%, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, tỷ lệ bao phủ nợ xấu suy giảm còn 80%, phản ánh chi phí trích lập dự phòng trong kỳ tăng chậm.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang Huy cho rằng, phần lớn tín dụng hiện nay chảy vào các doanh nghiệp lớn, có uy tín, hoặc các dự án bất động sản. Ngân hàng thường ưu tiên cho vay những khách hàng sở hữu tài sản thế chấp có giá trị cao và hồ sơ tín dụng tốt, điều này khiến các doanh nghiệp nhỏ, thiếu tài sản bảo đảm gặp bất lợi lớn trong việc tiếp cận vốn.
Ông Huy cũng chỉ ra thực trạng mặc dù lãi suất đã được điều chỉnh giảm ở một số thời điểm, nhưng điều kiện vay vốn của ngân hàng vẫn rất khắt khe. Theo đó, khách hàng phải chứng minh khả năng tài chính vững mạnh, có kế hoạch kinh doanh rõ ràng và lợi nhuận ổn định. Tuy nhiên, sau giai đoạn khó khăn do đại dịch và biến động kinh tế toàn cầu, nhiều doanh nghiệp không thể đáp ứng các tiêu chuẩn này. Kết quả là mặc dù tín dụng có tăng trưởng, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để tiếp cận nguồn vốn.