Hạ tầng làng nghề - Đòn bẩy đưa du lịch Hà Nội cất cánh

Trong không gian văn hóa của Thăng Long-Hà Nội, những làng nghề truyền thống không chỉ là nơi lưu giữ tinh hoa bàn tay khéo léo, mà còn là biểu tượng của sự bền bỉ, sáng tạo và nhân văn của người Thủ đô.

Hà Nội cần một cú hích về hạ tầng cho làng nghề và du lịch. (Ảnh: Quang Thái)

Hà Nội cần một cú hích về hạ tầng cho làng nghề và du lịch. (Ảnh: Quang Thái)

Từ bao đời nay, làng nghề đã hình thành nên mối quan hệ hữu cơ giữa nghề - làng - văn hóa - con người, tạo nên một bản sắc độc đáo, khó trộn lẫn. Tuy nhiên, để tiềm năng ấy trở thành nguồn lực kinh tế bền vững, Hà Nội cần một cú hích căn cơ, đó là hạ tầng cho làng nghề và hạ tầng cho du lịch.

Không gian kết tinh giữa văn hóa và kinh tế

Hà Nội hiện có hơn 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 337 làng nghề, nghề truyền thống và làng nghề truyền thống đã được công nhận, tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động, đóng góp hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm cho kinh tế nông thôn. Từ gốm sứ Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, quạt giấy Chàng Sơn, khảm trai Chuyên Mỹ đến bánh chưng Tranh Khúc, giò chả Ước Lễ, mỗi làng nghề đều kể một câu chuyện riêng về văn hóa, tri thức dân gian và tinh thần sáng tạo.

Làng nghề không chỉ là nơi làm ra sản phẩm mà còn là không gian văn hóa sống động, nơi lưu giữ nếp nhà, phong tục, tín ngưỡng và nghệ thuật dân gian. Chính mối gắn kết hài hòa giữa "nghề" và "làng" đã tạo nên bản sắc riêng cho vùng đất Thăng Long, nơi "người người làm nghề, nhà nhà giữ nghề".

Ở đó, mỗi sản phẩm không chỉ là hàng hóa, mà là một tác phẩm chứa đựng hồn cốt con người, kết tinh của lịch sử, lao động và thẩm mỹ. Đó cũng chính là giá trị mà du lịch hiện đại đang tìm kiếm: Trải nghiệm, câu chuyện và cảm xúc.

Dù sở hữu nguồn "tài nguyên mềm" quý giá nhưng thực tế, phần lớn các làng nghề Hà Nội vẫn gặp nhiều khó khăn để trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn; hạ tầng vật chất lẫn hạ tầng du lịch của phần lớn làng nghề vẫn còn yếu và manh mún. Theo các chuyên gia du lịch, "nút thắt lớn nhất" hiện nay chính là hạ tầng từ giao thông, cảnh quan, môi trường đến dịch vụ hỗ trợ du khách.

Phần lớn làng nghề nằm rải rác ở các huyện ngoại thành như Gia Lâm, Thường Tín, Thanh Oai, Chương Mỹ, Phú Xuyên… Hệ thống đường vào làng còn nhỏ hẹp, thiếu biển chỉ dẫn, bãi đỗ xe, nhà vệ sinh công cộng hay khu đón tiếp khách. Nhiều làng nghề vẫn đan xen khu sản xuất – sinh hoạt, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến mỹ quan chung.

Không chỉ giao thông, thiếu hạ tầng du lịch "mềm" như trung tâm giới thiệu sản phẩm, không gian trải nghiệm nghề, khu lưu trú cộng đồng hay nhà hàng đặc sản cũng khiến làng nghề khó giữ chân du khách lâu. Phần lớn khách hiện nay đến tham quan trong ngày, chụp ảnh, mua quà lưu niệm rồi rời đi, nên giá trị kinh tế du lịch chưa tương xứng với tiềm năng.

Nền tảng để "nghề có hồn, du lịch có cánh"

Để "cú hích" hạ tầng thực sự phát huy hiệu quả, cần nhìn nhận hạ tầng làng nghề không chỉ là đường xá, công trình, mà còn là hệ sinh thái tổng thể gồm hạ tầng sản xuất, hạ tầng du lịch và hạ tầng số.

Thứ nhất, hạ tầng sản xuất-thương mại. Làng nghề cần được quy hoạch theo hướng xanh-sạch-bền vững, có khu sản xuất tách biệt với khu dân cư, bảo đảm môi trường và an toàn lao động. Cùng với đó là xây dựng trung tâm trưng bày, giới thiệu, bán sản phẩm gắn với câu chuyện văn hóa, nguồn gốc, người thợ. Khi sản xuất được chuyên nghiệp hóa, sản phẩm dễ dàng bước ra thị trường du lịch và xuất khẩu.

Thứ hai, hạ tầng du lịch trải nghiệm. Các làng nghề cần được đầu tư không gian đón tiếp du khách, bãi đỗ xe, nhà vệ sinh, đường nội bộ, bảng hướng dẫn song ngữ, khu trình diễn nghề và khu nghỉ ngơi. Mô hình du lịch "một ngày làm nghệ nhân" - nơi du khách được tự tay làm sản phẩm, nghe kể chuyện về nghề đã chứng minh sức hút mạnh mẽ ở nhiều nơi như Bát Tràng, Vạn Phúc. Nếu hạ tầng đồng bộ, mô hình này hoàn toàn có thể nhân rộng.

Thứ ba, hạ tầng số và truyền thông. Chuyển đổi số đang mở ra hướng đi mới cho làng nghề Hà Nội. Việc xây dựng bản đồ số làng nghề, phát triển website, tour ảo 3D, hay tích hợp thanh toán điện tử, mã QR truy xuất nguồn gốc sản phẩm sẽ giúp du khách tiếp cận dễ dàng hơn, đặc biệt là du khách quốc tế. Đây cũng là cách để "số hóa di sản nghề", giúp thế hệ trẻ tiếp cận truyền thống theo cách hiện đại.

Độc đáo làng nghề tò he Xuân La, hứa hẹn trở thành điểm nhấn hấp dẫn của Triển lãm các sản phẩm, mẫu thiết kế hàng thủ công mỹ nghệ mới, sáng tạo - sản phẩm làng nghề xã Phượng Dực năm 2025. (Ảnh: Sơn Tùng)

Độc đáo làng nghề tò he Xuân La, hứa hẹn trở thành điểm nhấn hấp dẫn của Triển lãm các sản phẩm, mẫu thiết kế hàng thủ công mỹ nghệ mới, sáng tạo - sản phẩm làng nghề xã Phượng Dực năm 2025. (Ảnh: Sơn Tùng)

Cần cơ chế, chính sách "mở đường" cho hạ tầng

Để hiện thực hóa mục tiêu đưa Hà Nội trở thành “Thủ đô của nghề và nghệ”, thành phố đang triển khai Đề án tổng thể phát triển làng nghề giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn 2050, tập trung vào 5 trụ cột hạ tầng.

Một là hạ tầng kỹ thuật: Mở rộng giao thông, xử lý môi trường, quy hoạch khu sản xuất tập trung.

Hai là hạ tầng du lịch: Không gian trưng bày, tuyến trải nghiệm, trung tâm giới thiệu sản phẩm, khu lưu trú, dịch vụ ẩm thực;

Ba là hạ tầng số: Bản đồ du lịch số, nền tảng quảng bá, công nghệ thực tế ảo (VR/AR) để du khách có thể “trải nghiệm từ xa”;

Bốn là hạ tầng kết nối thị trường: Liên kết với doanh nghiệp lữ hành, hiệp hội du lịch, sàn thương mại điện tử.

Năm là hạ tầng văn hóa - nhân lực: Đào tạo hướng dẫn viên, nghệ nhân truyền dạy kỹ năng trình diễn và kể chuyện nghề.

Đây không chỉ là hạ tầng vật chất, mà là “hệ sinh thái kết nối toàn diện giữa nghề, người, sản phẩm và du khách” - điều kiện tiên quyết để du lịch làng nghề phát triển theo chiều sâu.

Nhiều địa phương đã mạnh dạn đầu tư, nâng cấp hạ tầng và dịch vụ. Làng gốm Bát Tràng đã hình thành tuyến phố du lịch, trung tâm trưng bày, khu trải nghiệm làm gốm cho du khách. Làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông) được chỉnh trang cảnh quan, tổ chức Lễ hội lụa thường niên, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách mỗi năm. Làng mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ), làng khảm trai Chuyên Mỹ (Phú Xuyên) hay làng nón Chuông (Thanh Oai) cũng đang từng bước định hình tour du lịch kết nối văn hóa làng nghề.

Tuy nhiên, các mô hình này còn mang tính điểm, thiếu liên kết vùng. Để du lịch làng nghề thực sự "cất cánh", Hà Nội cần một chiến lược tổng thể về quy hoạch hạ tầng, gắn kết giữa các làng nghề trong "chuỗi du lịch văn hóa Thăng Long".

Một hướng đi triển vọng là kết nối các làng nghề theo cụm, theo tuyến du lịch chuyên đề: Tuyến "Gốm và sứ Thăng Long" (Bát Tràng – Kim Lan – Phù Lãng), tuyến "Lụa và thêu Hà Đông" (Vạn Phúc – Quất Động – Triều Khúc), tuyến "Ẩm thực dân gian" (Ước Lễ – Tranh Khúc – Phú Đô)... Mỗi cụm tuyến có thể trở thành trải nghiệm trọn vẹn, kết hợp giữa nghề thủ công, ẩm thực và sinh hoạt văn hóa.

Bên cạnh đó, cần gắn làng nghề với không gian sáng tạo đô thị – nơi các nghệ nhân, nhà thiết kế, sinh viên mỹ thuật có thể cùng hợp tác để thổi "hơi thở mới" vào sản phẩm truyền thống. Khi truyền thống gặp hiện đại, làng nghề sẽ trở thành nền tảng của công nghiệp văn hóa – lĩnh vực mà Hà Nội đang hướng tới trở thành trung tâm khu vực.

Để "cú hích" hạ tầng trở thành hiện thực, không thể thiếu vai trò của chính quyền và doanh nghiệp. Hà Nội cần ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu tư công cho các dự án hạ tầng giao thông kết nối làng nghề; đồng thời khuyến khích xã hội hóa trong xây dựng trung tâm du lịch, không gian trải nghiệm nghề.

Các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng cần được thiết kế riêng cho doanh nghiệp đầu tư vào du lịch làng nghề. Đặc biệt, cần có quỹ bảo tồn và phát triển làng nghề, nhằm hỗ trợ nghệ nhân, thợ trẻ và các dự án số hóa nghề truyền thống.

Ngoài ra, để làng nghề đủ sức đón khách quốc tế, việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch tại chỗ từ kỹ năng giao tiếp, hướng dẫn, đến ngoại ngữ là yếu tố quyết định. Người dân chính là "đại sứ văn hóa" của làng mình, khi họ tự tin, thân thiện, hiểu nghề, đó chính là hạ tầng con người bền vững nhất.

Lâu nay, nhiều làng nghề vẫn loay hoay giữa bài toán "giữ nghề truyền thống" và "phát triển kinh tế hiện đại". Nhưng thực tế, hai yếu tố này không loại trừ nhau, ngược lại, du lịch chính là con đường để nghề sống lâu, bền vững. Khi du khách đến tìm hiểu, trải nghiệm và chi trả cho sản phẩm thủ công, người thợ có thêm thu nhập, có động lực sáng tạo và có lý do để truyền nghề cho thế hệ sau.

Điều đó chỉ có thể xảy ra khi hạ tầng vật chất và hạ tầng dịch vụ được đầu tư đồng bộ, tạo điều kiện cho du khách "đến dễ, đi thích, quay lại nhiều". Khi hạ tầng mở đường, văn hóa và con người sẽ tỏa sáng.

Trong tầm nhìn chiến lược, Hà Nội đặt mục tiêu trở thành "Thủ đô của nghề và nghệ" – nơi vừa gìn giữ giá trị truyền thống, vừa tiên phong trong sáng tạo văn hóa. Để hiện thực hóa tầm nhìn đó, hạ tầng chính là nền móng. Khi hạ tầng hoàn thiện, du lịch sẽ trên đà phát triển. Khi ấy, làng nghề Hà Nội sẽ là biểu tượng văn hóa sống động, góp phần nâng tầm thương hiệu Thủ đô trong tiến trình hội nhập quốc tế.

Đề án tổng thể phát triển làng nghề trên địa bàn TP. Hà Nội giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2050 xác định 11 nhóm giải pháp trọng tâm, trong đó tập trung hoàn thiện quy hoạch làng nghề; cải thiện hạ tầng và môi trường; đào tạo nguồn nhân lực; chuyển đổi số; phát triển sản phẩm gắn với chương trình OCOP; xúc tiến thương mại, hợp tác quốc tế và huy động xã hội hóa nguồn lực.

Song song với đó, 8 nhiệm vụ ưu tiên được triển khai gồm: Bảo tồn và khôi phục làng nghề truyền thống; phát triển làng nghề gắn du lịch và kinh tế xanh; xử lý ô nhiễm môi trường; ứng dụng công nghệ mới; nâng cấp hạ tầng; đào tạo, truyền nghề; quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu.

Bảo Thoa

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/ha-tang-lang-nghe-don-bay-dua-du-lich-ha-noi-cat-canh-332617.html