Giảng sư Thích Trí Thuyên - Lời kinh vẫn ngân vang nơi núi rừng Lựu Bảo
Năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa được thành lập không bao lâu, thực dân Pháp trở lại, dưới bóng của thực dân Anh theo thỏa ước của Đồng Minh vào giải giáp quân đội phát-xít Nhật phía Nam vĩ tuyến 16, hòng tái chiếm Việt Nam.
Khi kháng chiến bùng nổ, Tùng lâm Kim Sơn, cơ sở giáo dục của Phật giáo vừa được thành lập chưa bao lâu, đã rơi vào tình trạng điêu tàn. Tăng sinh hoặc theo một số giáo thọ vào Nam để tiếp tục tu học, hoặc tạm xếp áo cà-sa tham gia kháng chiến chống Pháp ở khắp các tỉnh, hoặc về lại vùng đô thị của Huế để lo củng cố Giáo hội và Phật học đường Báo Quốc. Còn ở lại tại Tùng lâm Kim Sơn chỉ có một vị giảng sư trẻ vừa tốt nghiệp Phật học đường Báo Quốc, chịu mọi gian lao, đói khát cực khổ vì chiến nạn với dân quanh vùng Lựu Bảo...

Tam quan Tùng lâm Kim Sơn
Vị giảng sư đó là thầy Trí Thuyên, thế danh là Trần Trọng Thuyên, sinh năm Quý Hợi (1923) tại xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Ngài Trí Thuyên đồng chơn nhập đạo, xuất gia với Tổ sư Chơn Trung Diệu Quang tại chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi). Trong thời cuộc loạn ly, chiến tranh nổ ra khắp nơi trong cả nước, sự sống và cái chết chỉ phân định qua một hơi thở, ngài dành trọn tuổi thơ của mình gắn với mái chùa, nuôi dưỡng hồn dân tộc qua những điều giản đơn mà bất cứ trẻ con Việt Nam nào cũng được tiếp xúc. Những câu chuyện cổ tích, nếp sống làng quê gắn với mái chùa đã un đúc tinh thần cho một con người kiên trung với đất nước, với Đạo pháp.
Tuổi thơ qua đi, với thiên tư thông minh, ngài được Bổn sư gởi đến học lớp gia giáo tại chùa Long Sơn (huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Sau một thời gian, ngài lại được gửi đến thọ học ở chùa Viên Giác (huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi).

Tự bi của Tùng lâm Kim Sơn - Ảnh: Trung Thiên
Năm Giáp Tuất (1934), thông tin về Hội An Nam Phật học mới lan truyền đến Quảng Ngãi, tinh thần của phong trào Chấn hưng Phật giáo đang được phát động rầm rộ tại Trung Kỳ được tiếp nhận. Tin tức về việc nhằm đào tạo Tăng tài làm trụ cột cho Giáo hội, chư Hòa thượng Giác Tiên và ngài Mật Khế đứng ra thành lập trường An Nam Phật học tại chùa Trúc Lâm (Huế), cung thỉnh Hòa thượng Phước Huệ làm chủ giảng được truyền đến Quảng Ngãi. Vâng lời Bổn sư, ngài lên đường ra Huế tiếp tục tu học. Lớp Phật học này chỉ thu nhận 50 học tăng, ngài dự thi tuyển và có mặt trong khóa học này cùng các vị Thiện Minh, Thiện Siêu, Trí Quang, Trí Tịnh, Thiện Hoa, Thiện Hòa,... Khi tốt nghiệp, ngài là một trong 8 vị Tăng sinh ưu tú đỗ cả kỳ thi viết và vấn đáp.
Năm Quý Mùi (1943), sau 9 năm chuyên cần học tập ở Phật học đường, ngài tốt nghiệp khóa Phật học tương đương trình độ đại học đầu tiên được phát khởi từ trong phong trào Chấn hưng Phật giáo. Theo tôn ý của chư tôn đức giáo thọ, ngài ở lại Huế tiếp tục nghiên cứu giáo điển và thực tập diễn giảng thuyết pháp.
Năm Giáp Thân (1944), khi được 21 tuổi, ngài tấn đàn thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn tổ chức tại tổ đình Thuyền Tôn do Đại lão Hòa thượng Giác Nhiên làm Đàn đầu truyền giới. Sau khi đắc giới, ngài được chư tôn Trưởng lão lãnh đạo Giáo hội Tăng-già Thừa Thiên phân bổ cùng chúng Tăng đến Tùng lâm Kim Sơn hoằng pháp; tại đây với vai trò giảng sư, ngài đã được đông đảo quần chúng tín nhiệm.
Năm Ất Dậu (1945), người Pháp trở lại Việt Nam, khủng bố, lùng bắt những ai ủng hộ phong trào độc lập và không chịu làm tay sai cho Chính phủ bảo hộ. Trong hoàn cảnh đó, thầy Trí Thuyên vẫn miệt mài dạy học chống nạn mù chữ cho nhân dân trong vùng. Với khó khăn của chính mình trong việc duy trì sinh hoạt của Tùng lâm Kim Sơn, ngài vẫn nhịn bớt phần ăn của mình để lấy gạo nấu cơm phát cho dân nghèo đói, vẫn tổ chức lạc quyên cứu trợ nạn dân đói kém đang hoành hành, nhường cơm sẻ áo cho đồng bào cả nước đang bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Trong những buổi nói chuyện với đồng bào quanh chùa, ngài luôn nhắc nhở phải giữ tinh thần dân tộc, khát vọng độc lập tự chủ, đấu tranh phản đối áp bức bóc lột theo tinh thần Bi – Trí – Dũng của Phật giáo và luôn phải tin vào một tương lai tươi sáng của Đạo pháp và Dân tộc. Chính vì những điều đó, ngài bị mật thám Pháp theo dõi sát sao và cô lập Tùng lâm Kim Sơn.

Bảo tháp Thầy Thích Trí Thuyên tại Tùng lâm Kim Sơn
Năm Bính Tuất (1946), khi cuộc chiến ác liệt hơn, tất cả Tăng chúng Tùng lâm Kim Sơn phải di tản, một số ít Tăng sinh ở đây thoát ly tham gia kháng chiến, chỉ một mình ngài tình nguyện ở lại giữ chùa, trường học và kinh sách, dưới cái nhìn dò xét và nghi kỵ của người Pháp và Chính phủ bảo hộ.
Còn lại một mình nơi Tùng lâm Kim Sơn với những buổi tối thăm thẳm nơi rừng núi cô tịch, ngài chẳng hề nao núng, vẫn giữ đúng thanh quy chốn già-lam, mõ sớm chuông chiều để giữ hơi ấm cho chốn thiền môn. Bản thân của ngài từ nhỏ cho đến khi trở thành giảng sư của Giáo hội có bao giờ sống xa mái chùa. Chùa chiền là máu thịt, là xương cốt của vị Tăng trẻ, là suối nguồn tâm linh nuôi dưỡng đời sống tinh thần, chùa nghiêng là đất trời trong ngài sụp đổ, nên dù gian khó vẫn phải kiên quyết giữ chùa, không chỉ cho ngài mà còn cho thế hệ mai sau.
Vào chiều Chủ nhật ngày 3-3-Đinh Hợi (23-2-1947), lính Pháp đóng đồn ở Văn Thánh tràn qua mở trận càn quét vùng Lựu Bảo – Kim Sơn. Bọn lính lên chùa, bắt thầy Trí Thuyên. Ngài đã dùng tiếng Pháp nói với giặc hãy để cho ngài tụng hoàn thành một thời kinh cuối cùng này rồi ra tay. Giảng sư Trí Thuyên ngồi kiết-già uy nghi tụng kinh trước họng súng của giặc. Thời kinh vừa xong, giặc Pháp đã nổ súng và ngài mãi mãi được ở lại với Tùng lâm Kim Sơn. Năm đó, ngài vừa đúng 24 tuổi đời, 3 tuổi đạo. Dân trong vùng đã an táng ngài trong khuôn viên Tùng lâm Kim Sơn.

Dấu tích Phật học đường xưa tại Tùng lâm Kim Sơn
Ngày nay Giáo hội đã xây lại tháp của ngài ở trước vườn chùa, bên phải chánh điện. Chiến tranh qua đi, Tùng lâm Kim Sơn vẫn còn hiện diện nơi vùng đất Lựu Bảo. Mõ sớm, chuông chiều vẫn âm vang theo lời kinh tiếng kệ chưa bao giờ dứt cùng với hình ảnh của một vị Tăng luôn giữ cốt cách của người tu, vô úy trước bạo lực, giữ hồn của dân tộc đến hơi thở cuối cùng.