Giải pháp tạo đột phá trong thanh quyết toán dự án nghiên cứu khoa học công nghệ

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Giám đốc Viện Michael Dukakis cho rằng quyết toán các dự án khoa học công nghệ do Nhà nước đặt hàng là công việc đầy thử thách và phức tạp. Vì vậy, cần có những đột phá trong khâu quyết toán dự án, công trình khoa học.

LTS: Lâu nay, Nhà nước chi đầu tư cho khoa học công nghệ (KHCN) trung bình khoảng trên dưới 1% ngân sách, tương đương khoảng chục nghìn tỷ mỗi năm. Khoản đầu tư này dù chưa lớn, nhưng nhiều năm không tiêu hết. Hậu quả là việc đầu tư cho KHCN không hiệu quả.

Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị xác định kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP (khoảng hơn 9 tỷ USD), trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% (khoảng hơn 3 tỷ USD) tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Vậy cơ chế đầu tư và cách thức đầu tư như thế nào để đạt hiệu quả và sinh lời cho đất nước?

Từ thực tế đầu tư cho nghiên cứu KHCN hiện nay, VietTimes triển khai loạt bài "Hàng tỷ USD đầu tư cho khoa học công nghệ thế nào cho hiệu quả?" nhằm tìm câu trả lời mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã đặt ra, dành nguồn tiền thích đáng để đầu tư cho nghiên cứu KHCN, từ đó KHCN là “chìa khóa vàng” để phát triển thịnh vượng.

Trong bài 3 của loạt bài, VietTimes đã trao đổi với ông Nguyễn Anh Tuấn (Đồng sáng lập, Giám đốc Viện Michael Dukakis về Lãnh đạo và Đổi mới – Sáng tạo; Đồng sáng lập và Tổng Giám Đốc Diễn đàn Toàn cầu Boston – Boston Global Forum; Nhà sáng lập và Tổng biên tập đầu tiên của Báo VietnamNet) để tiếp tục tìm các giải pháp giải đáp câu hỏi hàng tỷ USD đầu tư cho khoa học công nghệ thế nào cho hiệu quả?

Bài 1: Bức tranh tối màu về đầu tư cho khoa học công nghệ

Bài 2: Cần đổi mới cách chi tiền cho nghiên cứu khoa học

- Tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia vừa qua, Tổng bí thư Tô Lâm đã đề nghị Chính phủ cần đổi mới kế hoạch bố trí ngân sách cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, bố trí đủ ít nhất 3% ngân sách để thực hiện nhiệm vụ này và tiếp tục nâng lên tỷ lệ chi cho KHCN lên 2% GDP trong 5 năm tiếp theo. Thực ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng XI cũng đã đưa ra chỉ tiêu này, nhưng trên thực tế, đầu tư cho KHCN mấy năm gần đây vẫn nằm ở mức thấp. Ông nhìn nhận như thế nào về quyết tâm thực hiện con số 2% GDP lần này?

- Quyết tâm nâng mức đầu tư cho nghiên cứu phát triển lên 2% GDP, khoảng 3% chi NSNN hằng năm cho KHCN và nâng dần theo từng năm, theo phát biểu của Tổng bí thư Tô Lâm là một bước ngoặt quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây là tín hiệu mạnh mẽ về việc đặt KHCN vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, chúng ta có những bài học quý báu bằng việc nhìn lại tại sao cho đến bây giờ Việt Nam chưa có thành công đột phá về KHCN.

Nhìn từ thực tiễn, mặc dù Nghị quyết của Đại hội XI đã đặt ra mục tiêu tương tự, việc thực hiện vẫn gặp nhiều khó khăn, với tỷ lệ đầu tư thấp trong những năm qua. Điều này cho thấy khoảng cách lớn giữa chính sách và thực tiễn.

Để hiện thực hóa quyết tâm nâng mức đầu tư lên 2% GDP, cần có những hành động cụ thể và đồng bộ với các giải pháp mang tính đột phá trong quản lý, phân bổ và sử dụng nguồn lực đầu tư cho KHCN, đồng thời đảm bảo sự đồng thuận và hành động quyết liệt từ cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp.

- Phương án Nhà nước đặt hàng cho các tập đoàn công nghệ, các trường đại học, các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, các tổ chức, thậm chí là cá nhân đang là xu hướng mà nhiều nước vẫn làm. Vậy Việt Nam cần phương thức đặt hàng như thế nào để tạo đột phá, phát triển?

- Phương án Nhà nước đặt hàng các tập đoàn công nghệ, trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức hay cá nhân để phát triển các sản phẩm KHCN, dịch vụ công là một mô hình phổ biến trên thế giới.

Mục tiêu chính của phương án này là tận dụng nguồn lực từ cả khu vực công và tư nhân để đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và ứng dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả, cần đảm bảo công bằng, minh bạch và hướng đến sự phát triển bền vững.

Ở Việt Nam chúng ta cần xây dựng các phương thức và giải pháp đặt hàng để đảm bảo công bằng, minh bạch và phát triển. Theo đó, cần:

- Xây dựng cơ chế đấu thầu cạnh tranh và công khai: Thông tin về các dự án đặt hàng cần được công bố rộng rãi trên các cổng thông tin chính thức. Tất cả các bên tham gia cần có cơ hội bình đẳng để tiếp cận và nộp hồ sơ dự thầu.

- Thiết lập tiêu chí đánh giá rõ ràng, khách quan: Các tiêu chí như năng lực thực hiện, kinh nghiệm, hiệu quả kỳ vọng, và giá trị đóng góp vào xã hội cần được cụ thể hóa. Hội đồng thẩm định độc lập, gồm các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực, giúp giảm thiểu thiên vị và đảm bảo tính khách quan.

- Thúc đẩy cơ chế giám sát và phản hồi minh bạch: Các dự án cần được giám sát liên tục trong suốt quá trình thực hiện để đảm bảo tiến độ và chất lượng. Có cơ chế tiếp nhận và xử lý phản hồi từ cộng đồng và các bên liên quan.

- Khuyến khích hợp tác công - tư và liên ngành: Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và cá nhân có năng lực tham gia cạnh tranh. Hợp tác liên ngành giúp kết hợp đa dạng nguồn lực và tăng hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước.

- Ưu tiên các dự án có tính ứng dụng cao, tạo sự đột phá và đóng góp vào phát triển bền vững: Chỉ đặt hàng cho những dự án có tiềm năng giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế lớn và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Phương thức đặt hàng hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào cơ chế mà còn vào tinh thần trách nhiệm và sự minh bạch trong quản lý và thực thi chính sách.

- Khi Nhà nước đặt hàng rồi thì cơ chế nào để theo dõi, giám sát “đơn hàng” được triển khai đúng mục đích, đúng tiến độ, hiệu quả và gắn với nhu cầu của thị trường?

- Việc làm thế nào để theo dõi, giám sát quá trình triển khai các dự án, đề án để đảm bảo đúng mục đích, đúng tiến độ, hiệu quả và gắn với nhu cầu thực tế của thị trường là một thách thức lớn. Bởi thiếu cơ chế giám sát hiệu quả có thể dẫn đến lãng phí nguồn lực, chậm tiến độ và không đạt được mục tiêu phát triển.

Theo đó, các cơ chế theo dõi, giám sát dự án đặt hàng từ Nhà nước nên được tiến hành đồng bộ, cụ thể:

-Thiết lập hệ thống giám sát độc lập và minh bạch: Thành lập hội đồng giám sát gồm các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực, đại diện các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức phi chính phủ để đánh giá khách quan. Hội đồng cần báo cáo định kỳ về tiến độ và chất lượng dự án.

- Áp dụng công nghệ quản lý dự án hiện đại: Sử dụng hệ thống quản lý trực tuyến để cập nhật liên tục tiến độ, chi phí, và các thay đổi trong quá trình triển khai. Áp dụng công cụ như hệ thống thông tin quản lý dự án để cung cấp dữ liệu theo thời gian thực cho các bên liên quan.

- Ràng buộc trách nhiệm thông qua các cam kết hợp đồng rõ ràng: Các hợp đồng cần quy định chi tiết về tiến độ, kết quả đầu ra, và hình thức xử phạt khi không hoàn thành đúng cam kết. Điều khoản về đánh giá và nghiệm thu cần gắn chặt với mục tiêu và nhu cầu thị trường.

- Cơ chế kiểm toán và đánh giá độc lập: Các dự án lớn cần được kiểm toán định kỳ bởi các cơ quan kiểm toán độc lập để đảm bảo sự minh bạch về tài chính và hiệu quả sử dụng nguồn vốn. Thực hiện đánh giá tác động của dự án đối với thị trường và xã hội sau khi hoàn thành.

- Thiết lập kênh phản hồi và giám sát cộng đồng: Tạo cơ chế cho phép doanh nghiệp, người dân, và các bên liên quan tham gia phản ánh về chất lượng và hiệu quả của dự án. Công khai thông tin về tiến độ và hiệu quả dự án trên các phương tiện truyền thông và cổng thông tin công khai.

- Cơ chế thưởng - phạt linh hoạt và công bằng: Khuyến khích các đơn vị thực hiện tốt bằng hình thức thưởng dựa trên kết quả vượt mong đợi. Xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm hoặc không hoàn thành theo đúng mục đích đã cam kết.

Tóm lại, để giám sát hiệu quả, cần một hệ sinh thái quản trị đa chiều kết hợp giữa quản lý Nhà nước, công nghệ hiện đại và sự tham gia của cộng đồng nhằm đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và bền vững cho các dự án đặt hàng.

- Theo ông thì Nhà nước có nên khuyến khích các viện nghiên cứu, các tập đoàn công nghệ lớn của thế giới tham gia dự thầu các dự án, đề án do Nhà nước đầu tư không? Nếu có thì có nên quy định lĩnh vực nào có thể, lĩnh vực nào không thể tham gia không?

- Các quốc gia phát triển thường có chính sách thu hút các đối tác quốc tế để gia tăng hiệu quả đầu tư công và thúc đẩy phát triển khoa học- công nghệ. Tuy nhiên, việc mở rộng cho các đối tác nước ngoài tham gia cần được đảm bảo quyền lợi quốc gia, an ninh kinh tế, và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp nội địa. Cần có chính sách hạn chế và nghiêm ngặt với những tổ chức, cá nhân từ những nước có nguy cơ xâm hại an ninh kinh tế, xâm hại chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, và lợi ích của Việt Nam.

Việc Nhà nước khuyến khích các viện nghiên cứu và tập đoàn công nghệ lớn của thế giới tham gia đấu thầu các dự án, đề án có thể mang lại nhiều lợi ích như: tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các tổ chức trong nước, và thúc đẩy chuyển giao tri thức, cụ thể như sau:

- Tận dụng tri thức và công nghệ hiện đại: Các đối tác quốc tế thường có công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm triển khai quy mô lớn, giúp nâng cao chất lượng dự án.

Việt Nam cần đặt ra những yêu cầu cụ thể để các đối tác quốc tế tham gia là một thành tố, còn doanh nghiệp, tổ chức của Việt Nam làm chủ sở hữu trí tuệ, thương hiệu và kết quả.

- Chuyển giao công nghệ và phát triển nhân lực: Tham gia hợp tác với các tập đoàn lớn, các trung tâm nghiên cứu, sáng tạo lớn của Mỹ ở Boston (như Harvard, MIT), Silicon Valley (như Stanford, Berkeley) có thể tạo cơ hội cho các viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong nước học hỏi và tiếp nhận công nghệ mới, từ đó có tư duy tầm cao, vượt lên, đi cùng các trung tâm trí tuệ hàng đầu của thế giới, đặc biệt là ở Mỹ.

- Tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập kinh tế: Sự tham gia của các đơn vị quốc tế thúc đẩy hội nhập, mở rộng thị trường và nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.

Về vấn đề có nên quy định lĩnh vực nào được phép tham gia và lĩnh vực nào không? Tôi trả lời rõ ràng là: Có. Chúng ta cần có quy định rõ ràng để đảm bảo các mục tiêu sau:

- Bảo vệ an ninh quốc gia và lợi ích chiến lược: Các lĩnh vực nhạy cảm như quốc phòng, an ninh mạng, và hạ tầng thông tin quan trọng nên hạn chế sự tham gia của các đối tác nước ngoài, đặc biệt là hạn chế với những đối tác đến từ các quốc gia đe dọa đến quyền lợi, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đe dọa đến an ninh kinh tế của Việt Nam.

- Ưu tiên phát triển doanh nghiệp nội địa: Các lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước có đủ năng lực cần được bảo vệ để khuyến khích nội lực.

- Đảm bảo quyền kiểm soát đối với tài nguyên quốc gia: Các lĩnh vực liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và năng lượng cần được quản lý chặt chẽ.

Còn các dự án về năng lượng tái tạo, y tế công nghệ cao, giáo dục thông minh, và phát triển thành phố thông minh nên mạnh dạn mở cửa để các tập đoàn lớn của nước ngoài tham gia.

- Câu chuyện quyết toán các dự án do Nhà nước đặt hàng thực sự không hề đơn giản. Hóa đơn, chứng từ rất phức tạp. Đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhiều khi mạo hiểm, không đem lại kết quả. Nhiều trường hợp lo lắng bị quy kết thất thoát vốn Nhà nước, thậm chí bị truy tố v tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Vậy theo ông, nên có những đột phá như thế nào trong khâu quyết toán các dự án, công trình khoa học để thuận lợi cho cả Nhà nước (người đầu tư) và doanh nghiệp (người nhận hợp đồng)?

- Quyết toán các dự án do Nhà nước đặt hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, quả thực là một công việc đầy thử thách và phức tạp.

Nguyên nhân chính là do tính chất không chắc chắn của nghiên cứu khoa học: kết quả thường khó đoán trước, có thể là những đột phá hoặc không có kết quả rõ ràng trong một thời gian dài.

Hơn nữa, các dự án nghiên cứu đụng phải nhiều yếu tố phi vật chất và sáng tạo, làm cho việc chứng minh hiệu quả và tính hợp lý của các khoản chi tiêu trở nên khó khăn. Điều này dễ dẫn đến hiểu lầm và tranh cãi trong việc quyết toán, đặc biệt khi có sự khác biệt trong cách đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.

Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp và các tổ chức tham gia mà còn có thể gây ra căng thẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và các bên nhận hợp đồng.

Vì vậy, về cơ chế, chính sách cần có những đột phá trong khâu quyết toán các dự án, công trình khoa học, cụ thể:

1. Xây dựng quy trình quyết toán rõ ràng, minh bạch và linh hoạt

- Công nhận tính đặc thù của nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu khoa học có tính chất đặc thù, với sự không chắc chắn về kết quả. Do đó, cần xây dựng một quy trình quyết toán linh hoạt, chấp nhận được sự thay đổi trong kế hoạch ban đầu, nhưng không thay đổi mục tiêu, kết quả đạt được.

Các cơ quan quản lý cần có sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của các dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ, đồng thời công nhận rủi ro và thất bại là một phần không thể tránh khỏi trong quá trình nghiên cứu.

- Đảm bảo tính minh bạch trong từng giai đoạn: Các khoản chi phí, hóa đơn, chứng từ cần phải được lưu trữ và báo cáo một cách minh bạch. Một hệ thống báo cáo trực tuyến có thể giúp kiểm soát tiến độ và tài chính của dự án trong suốt quá trình thực hiện, giúp giảm thiểu sự sai sót hoặc gian lận.

2. Thiết lập hệ thống đánh giá kết quả linh hoạt và phù hợp

- Đánh giá không chỉ dựa vào kết quả cuối cùng mà còn vào quá trình: Với các dự án nghiên cứu khoa học, kết quả không phải lúc nào cũng đạt được ngay lập tức.

Cần có một hệ thống đánh giá toàn diện, bao gồm việc đánh giá các bước thực hiện, sự đóng góp của đội ngũ nghiên cứu, và khả năng áp dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tế.

- Khuyến khích thử nghiệm và đổi mới: Cần khuyến khích các tổ chức nhận hợp đồng thực hiện thử nghiệm và đổi mới mà không bị ràng buộc quá chặt chẽ, không cứng nhắc, miễn là các hoạt động đó đem lại kết quả tốt, có tính khả thi.

3. Cải thiện cơ chế giám sát và kiểm tra trong quá trình thực hiện

- Giám sát định kỳ và đánh giá giữa kỳ: Nhà nước nên thiết lập các cơ chế giám sát định kỳ (hàng quý, hàng năm) thay vì chỉ kiểm tra sau khi dự án hoàn thành. Điều này giúp phát hiện và xử lý kịp thời những sai sót hoặc thay đổi cần thiết trong dự án.

- Phát triển cơ chế phản hồi hai chiều: Cần tạo ra một kênh giao tiếp mở giữa Nhà nước và đơn vị thực hiện dự án để giải quyết vướng mắc và bất đồng trong quá trình triển khai, giúp tránh được các hiểu lầm và giải quyết vấn đề trước khi nó trở thành nghiêm trọng.

4. Đảm bảo sự linh hoạt trong việc sử dụng ngân sách

- Cung cấp nguồn tài chính đủ linh hoạt: Các dự án nghiên cứu khoa học có thể gặp phải những thay đổi trong kế hoạch và cần điều chỉnh ngân sách cho phù hợp. Nhà nước cần tạo ra cơ chế cấp phát nguồn vốn linh hoạt và có thể điều chỉnh, đặc biệt trong trường hợp cần tăng thêm nguồn lực cho những thí nghiệm mới hoặc nghiên cứu cần thiết.

Tất cả nghiệm thu dựa trên kết quả đạt được ở thực tế, chứ không cứng nhắc trên giấy tờ , chứng từ.

- Đánh giá hiệu quả qua nhiều tiêu chí: Việc đánh giá không nên chỉ dựa trên ngân sách và chi phí mà còn phải dựa trên kết quả trung gian, các bước nghiên cứu có giá trị, hoặc sản phẩm của quá trình nghiên cứu, như bài báo khoa học, sáng chế hoặc các phát triển công nghệ có thể ứng dụng.

5. Đảm bảo công bằng trong quyết toán và giảm thiểu rủi ro pháp lý

- Công nhận sự khác biệt giữa các dự án khoa học và các dự án khác: Các dự án nghiên cứu khoa học cần được xử lý với sự cảm thông về sự mạo hiểm trong việc đầu tư và thử nghiệm, tránh tình trạng quy kết thất thoát vốn một cách không công bằng.

- Tạo cơ chế bảo vệ cho các tổ chức nhận hợp đồng: Nhà nước có thể xây dựng cơ chế bảo vệ đối với các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp tham gia dự án, giúp họ có thể hoàn thành nhiệm vụ mà không lo sợ bị truy cứu trách nhiệm nếu kết quả không đạt như mong đợi dù đã cố gắng ở mức cao nhất và xã hội giám sát được nỗ lực, cố gắng của họ.

Như vậy, việc cải thiện quy trình quyết toán các dự án khoa học đòi hỏi phải có những bước đi cụ thể, linh hoạt và minh bạch. Cả Nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu đều cần phải thay đổi tư duy và cơ chế quản lý để giảm thiểu tranh cãi và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nghiên cứu khoa học. Việc áp dụng những đột phá trên sẽ giúp khắc phục các vướng mắc hiện tại, đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia và thúc đẩy tiến bộ trong các dự án nghiên cứu khoa học.

-Xin cảm ơn ông!

Lê Thọ Bình

Nguồn VietTimes: https://viettimes.vn/giai-phap-tao-dot-pha-trong-thanh-quyet-toan-du-an-nghien-cuu-khoa-hoc-cong-nghe-post180354.html?utm_source=web_vt&utm_medium=home_noibat_vt&utm_campaign=noibat
Zalo