Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán công nghệ thông tin

Trong bối cảnh chuyển đổi số, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh mẽ, tác động đến mọi mặt của kinh tế - xã hội, việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và kiểm toán CNTT đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (KTNN).

Ứng dụng CNTT và kiểm toán CNTT đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kiểm toán. Ảnh: ST

Ứng dụng CNTT và kiểm toán CNTT đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kiểm toán. Ảnh: ST

Xu hướng kiểm toán trên thế giới là kiểm toán toàn diện, vì vậy, phải dựa trên phân tích dữ liệu, tự động hóa quy trình, tăng cường tính tin cậy, chính xác, ứng dụng AI, học máy. KTNN Việt Nam cũng đang tiến tới kiểm toán toàn diện, tuy nhiên, để thực hiện được cần phải tính đến chi phí, nguồn lực.

GS,TS. Đoàn Xuân Tiên - Nguyên Phó Tổng Kiểm toán nhà nước, Chủ tịch Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam

Nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm toán

Hiện nay, KTNN thực hiện kiểm toán CNTT dựa trên Hướng dẫn kiểm toán CNTT ban hành năm 2021 - đây là kết quả của quá trình nghiên cứu, xây dựng bài bản, tham khảo hướng dẫn của Tổ chức quốc tế Các cơ quan Kiểm toán tối cao và kinh nghiệm của các tổ chức kiểm toán uy tín trên thế giới. Nội dung chính của kiểm toán CNTT bao gồm: Kiểm toán trong môi trường CNTT; kiểm toán các hệ thống CNTT và kiểm toán các dự án CNTT của các đơn vị được kiểm toán.

Theo KTNN chuyên ngành VII, ngay từ khi hình thành lĩnh vực kiểm toán CNTT (năm 2016), KTNN đã xây dựng một số công cụ, phần mềm ứng dụng kiểm toán để triển khai áp dụng tại các cuộc kiểm toán hệ thống CNTT trọng yếu phục vụ lập báo cáo tài chính (BCTC) của một số ngân hàng lớn như: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, MB. Qua đó, các kiểm toán viên (KTV) kiểm tra lại tính chính xác trong việc phân loại nợ tín dụng, xác định chi phí dự phòng rủi ro, loại bỏ rủi ro kiểm toán do sự can thiệp thủ công chỉnh sửa dữ liệu của các ngân hàng thương mại, thống nhất phương pháp và xử lý số liệu kiểm toán. Kết quả kiểm toán BCTC có lồng ghép kiểm toán CNTT của các đoàn kiểm toán tại các ngân hàng thương mại đã có những phát hiện lớn, kết quả kiểm toán tăng đáng kể, tổng số kiến nghị xử lý tài chính tăng 59% so với giai đoạn trước đó.

Giai đoạn 2021-2023, KTNN đã đạt được nhiều kết quả nổi bật khi triển khai kiểm toán hệ thống CNTT và dự án CNTT tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (năm 2021, 2023) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (năm 2022). Kết quả kiểm toán đã chỉ ra một số thiếu sót trong các khâu lập thẩm định, phê duyệt, dự án và thực hiện các dự án CNTT; cách thức quản lý dự án vốn ODA chưa phù hợp với các quy định thực hiện dự án CNTT; tiến độ thực hiện dự án chậm; một số tồn tại liên quan đến an toàn bảo mật của dự án như rủi ro về nhân sự, quy trình vận hành, quản lý các hệ thống. Trong đó, nổi bật là việc tìm ra những sai sót về việc tính đúng các khoản phí vốn có giá trị nhỏ, phát sinh hằng ngày rất khó để phát hiện nếu chỉ dùng phương pháp kiểm toán thông thường.

Trong quá trình triển khai kiểm toán, KTV ngày càng nhận thức rõ hơn về kiểm toán CNTT khi tập trung đánh giá hệ thống CNTT liên quan đến việc lập BCTC. Đồng thời, kiểm toán dự án CNTT để đánh giá, xác nhận về số liệu tài chính cũng như nguồn gốc sinh ra hệ thống, dữ liệu; tập trung phân tích dữ liệu liên quan đến việc lập BCTC. Các hoạt động trên được thực hiện đồng bộ nhằm đảm bảo KTNN ngày càng nắm bắt cách thức vận hành hệ thống CNTT, dữ liệu liên quan đến BCTC của đơn vị, từ đó ứng dụng phân tích dữ liệu để xác định rủi ro và trọng yếu trong kiểm toán tài chính.

Đối với cuộc kiểm toán NSNN tại địa phương và quyết toán NSNN, kiểm toán CNTT đã hỗ trợ xác định tính đúng đắn của báo cáo quyết toán, qua đó, KTNN đã chỉ ra hiện tượng vi phạm các quy định quyết toán chi tiết của đơn vị mà trước đó các cuộc kiểm toán thông thường không thực hiện được đầy đủ. Đặc biệt, kết quả kiểm toán CNTT đã phát hiện chính xác các hiện tượng vi phạm trong việc các nguồn ngân sách dự toán phân bổ không kịp thời, ứng trước hàng nghìn tỷ đồng cho xây dựng cơ bản ngoài kế hoạch, điều chuyển nhiệm vụ chi không đúng Luật NSNN… Từ đó, KTNN có những kiến nghị về điều hành dự toán NSNN tại địa phương và việc quản lý tài sản công liên quan đến thu NSNN.

Trọng tâm là phân tích dữ liệu

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai kiểm toán CNTT gặp phải một số khó khăn, thách thức liên quan đến cơ chế chính sách, quy định pháp lý về việc tiếp cận và chia sẻ dữ liệu; cập nhật về công nghệ; nguồn dữ liệu. Ngoài ra, đội ngũ nhân lực còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. KTNN chưa xây dựng được hệ thống CNTT hoàn chỉnh có khả năng kết nối, thu thập, truy cập, lưu trữ dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu lớn ở cấp độ chi tiết (dữ liệu gốc) của các đối tượng kiểm toán nhằm nâng cao tính chủ động, chuyên sâu cho kiểm toán CNTT.

Thực tiễn cho thấy, việc ứng dụng CNTT và chuyển đổi số tại các đơn vị được kiểm toán ngày càng phát triển, hầu hết hoạt động nghiệp vụ và quản lý được thực hiện, kiểm soát trên các hệ thống CNTT. Bên cạnh đó, các cơ sở dữ liệu quốc gia đã cung cấp thông tin nghiệp vụ chi tiết đến từng công dân, doanh nghiệp. Vì vậy, nếu hoạt động kiểm toán CNTT của KTNN không được triển khai kịp thời, đồng bộ thì KTNN sẽ bị tụt hậu.

Theo đó, các giải pháp nhằm phát triển ứng dụng CNTT và kiểm toán CNTT trong thời gian tới cần tập trung vào các nhóm: Hoàn thiện khung pháp lý về kiểm toán CNTT. Xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể nhằm thay đổi tư duy, cách tiếp cận kiểm toán trong môi trường CNTT/số hóa, khuyến khích triển khai kiểm toán CNTT tại KTNN. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán CNTT và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của kiểm toán CNTT trong toàn xã hội.

KTNN cần sử dụng các công cụ kiểm toán CNTT hiện đại. Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở dữ liệu lớn để thu thập, quản lý thông tin về hệ thống CNTT, cơ sở dữ liệu thuộc khối các đơn vị lĩnh vực công trên phạm vi toàn quốc làm cơ sở của kiểm toán CNTT. Đảm bảo về trang thiết bị, bản quyền phần mềm chuyên dụng để phục vụ kiểm toán CNTT và đủ công cụ để phân tích dữ liệu, đặc biệt với những dữ liệu lớn.

Đồng thời, tăng cường nguồn nhân lực cho kiểm toán CNTT, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao về dữ liệu và phân tích dữ liệu. Triển khai kế hoạch đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn về kiểm toán CNTT và đặt trọng tâm là phân tích dữ liệu phục vụ hoạt động kiểm toán.

Số lượng các cuộc kiểm toán CNTT cần được tăng cường và ứng dụng phân tích dữ liệu trong các cuộc kiểm toán thông thường, trong đó phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa KTV chuyên sâu về tài chính, am hiểu nghiệp vụ của đơn vị được kiểm toán với các chuyên gia phân tích dữ liệu để phát huy tối đa sức mạnh của phân tích dữ liệu./.

LY HƯỜNG

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/giai-phap-nang-cao-chat-luong-kiem-toan-cong-nghe-thong-tin-38763.html
Zalo