Đưa thể chế, pháp luật thành lợi thế cạnh tranh

Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị đã ký ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW (ngày 30/4/2025) về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị là phải mở đường, khơi thông mọi nguồn lực, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển, tạo dư địa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế “hai con số”, nâng cao đời sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.

Nghị quyết 66 ra đời vào thời điểm này là do công tác công tác xây dựng và thi hành pháp luật hiện vẫn đang còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số chủ trương, định hướng của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý. Chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Còn có những quy định chồng chéo, cản trở việc thực thi. Việc phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh; thủ tục hành chính còn rườm rà.

Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Thế Liên, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp, Ủy viên Hội đồng Khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cho biết: Đẩy mạnh cải cách thể chế, pháp luật là yêu cầu quan trọng hàng đầu nhằm tạo dựng cho được hệ thống thể chế tổng thể, đồng bộ và vận hành hiệu quả, thúc đẩy phát triển đất nước. Thể chế đó nhìn một cách tổng thể phải bảo đảm thể hiện, thực hiện 3 yêu cầu cơ bản là: trật tự chung bền vững, pháp quyền và phát triển.

Trật tự chung bền vững là sự toàn vẹn lãnh thổ; quyền tự quyết dân tộc; quyền làm chủ của nhân dân; sự lãnh đạo của Đảng; đại đoàn kết dân tộc. Đây là điều kiện cần thiết hàng đầu.

Pháp quyền đặt ra yêu cầu phải thượng tôn Hiến pháp và pháp luật vì những giá trị mà nhân loại và dân tộc ta đã và đang theo đuổi, đó là dân chủ, công bằng, văn minh, công lý, quyền con người và quyền công dân.

Phát triển đòi hỏi phải thúc đẩy sáng tạo, phát triển khoa học - công nghệ, đón nhận cái mới và tạo điều kiện cho cái mới phát triển, hợp tác và hội nhập quốc tế sâu, rộng.

Để đạt được các yêu cầu nêu trên, chúng ta cần có một thiết kế tổng thể, đồng bộ và khả thi về cải cách thể chế, pháp luật, chỉ đạo thực hiện quyết liệt và nhất quán với sự nỗ lực không ngừng nghỉ của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Đồng thời, phải theo phương châm đã bắt đầu thì phải kiên định thực hiện cho đến khi đạt được mục tiêu đề ra, tránh tình trạng "đẽo cày giữa đường".

Một nghị quyết hoàn chỉnh, đầy đủ về việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới chính là “thiết kế tổng thể, đồng bộ và khả thi về cải cách thể chế, pháp luật” nói trên. Mục đích là chuẩn bị cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển bứt phá, giàu mạnh, hùng cường dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nghị quyết 66 vừa là một chính sách độc lập, vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, kết nối với Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; với Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới và với Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Trong mối liên hệ với Nghị quyết 57, Nghị quyết 66 xác định: Tập trung xây dựng pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, phi truyền thống (trí tuệ nhân tạo, chuyên đổi số, chuyển đổi xanh, khai thác nguồn lực dữ liệu, tài sản mã hóa...) để hình thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất mới, các ngành công nghiệp mới.

Trong mối liên hệ với Nghị quyết 59, Nghị quyết 66 xác định: Nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế, pháp luật quốc tế. Cụ thể, cần hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực của các cơ quan, tổ chức Việt Nam để bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, định hình trật tự pháp lý quốc tế; tham gia tích cực việc xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế: tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Xử lý tốt các vấn đề pháp lý quốc tế phát sinh, nhất là tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế nhằm kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước Việt Nam.

Trong mối liên hệ với Nghị quyết 68, Nghị quyết 66 xác định: Xây dựng pháp luật theo hướng giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển.

Bảo đảm thực chất quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và quyền tự do hợp đồng, sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Tạo cơ sở pháp lý để khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận hiệu quả các nguồn lực về vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao; thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu; hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Công an tỉnh Điện Biên hướng dẫn góp ý dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 2013 qua VNeID trên điện thoại thông minh cá nhân. Ảnh: Phan Quân/TTXVN

Công an tỉnh Điện Biên hướng dẫn góp ý dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 2013 qua VNeID trên điện thoại thông minh cá nhân. Ảnh: Phan Quân/TTXVN

Công tác xây dựng và thi hành pháp luật được Đảng ta coi là “đột phá của đột phá” với những mục tiêu cụ thể cũng mang tính đột phá.

Đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan sau sắp xếp tổ chức bộ máy, tháo gỡ vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội để đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Ở tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam sẽ có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, tôn trọng, bào đám, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội, quản trị quốc gia hiện đại với bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.

Ngay trong năm 2025 Việt Nam phải cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong pháp luật. Năm 2027, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp. Năm 2028, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.

Nghị quyết 66 đưa ra yêu cầu có sự kết nối giữa “nội lực” và “ngoại lực”, phát huy sức mạnh của bản thân nhưng không đóng cửa, bỏ qua kho tri thức chung của loài người. Đó là việc xây dựng pháp luật vừa phải bám sát thực tiễn, “đứng trên mảnh đất thực tiễn của Việt Nam”, song vẫn tiếp thu được một cách có chọn lọc những giá trị tinh hoa về khoa học pháp lý của nhân loại.

Trần Quang Vinh (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/viet-nam-ky-nguyen-moi/dua-the-che-phap-luat-thanh-loi-the-canh-tranh-20250601131047497.htm
Zalo