Đưa khoa học công nghệ đến với người dân vùng chè
Chè luôn được xác định là cây trồng chủ lực mang lại nguồn thu nhập cao cho người dân Thái Nguyên. Để nâng cao hơn nữa giá trị cây chè, thời gian qua, tỉnh có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích người dân ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến. Nhờ đó năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm chè không ngừng tăng lên. Hiện nay, toàn tỉnh có trên 22.200ha chè, sản lượng năm 2024 đạt 272.800 tấn, giá trị sản phẩm thu được đạt trên 13.800 tỷ đồng.

HTX chè Hảo Đạt, xã Tân Cương, TP. Thái Nguyên, đã đầu tư hệ thống phun tưới chè tự động nhằm giảm chi phí, công lao động và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm chè. Ảnh: T.L
Đến thăm vùng chè xã Tân Cương (TP. Thái Nguyên), chúng tôi nhận thấy hầu hết các đồi chè ở đây đã được trang bị hệ thống tưới nước tự động. Ông Trần Văn Thắng, chủ cơ sở chè Thắng Hường, một trong những hộ sản xuất chè lâu năm ở xã, chia sẻ: Từ khi có hệ thống tưới tự động, người làm chè đã giảm được công lao động và đạt hiệu quả cao hơn, cây chè phát triển xanh tốt, nâng cao cả chất và lượng.
Không chỉ Tân Cương, ở vùng chè Trại Cài, xã Minh Lập (Đồng Hỷ); Hoàng Nông, La Bằng (Đại Từ); Tức Tranh (Phú Lương) và nhiều địa phương khác ở các huyện Võ Nhai, Định Hóa…, người dân cũng đã mạnh dạn đầu tư hệ thống tưới chè tự động. Đây chính là kết quả từ một trong những chính sách của tỉnh nhằm khuyến khích người dân ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) vào sản xuất, chế biến chè.
Ngoài chính sách này, tỉnh đã hỗ trợ người dân về đào tạo, tập huấn, tuyên truyền, hỗ trợ giống chè mới; sản xuất chứng nhận chè hữu cơ, chè VietGAP (riêng năm 2024 hỗ trợ cấp giấy chứng nhận cho 40ha chè hữu cơ, 670ha chè VietGAP).
Bên cạnh đó, tỉnh còn hỗ trợ các vùng chè về cơ giới hóa, thiết bị chế biến, bao bì, nhãn mác, xây dựng thương hiệu, kết nối, quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm…
Bà Lê Thị Quỳnh Hương, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản tỉnh, cho biết: 5 năm qua, tỉnh đặc biệt quan tâm phát triển thương mại điện tử trong tiêu thụ nông sản. Theo đó, Chi cục đã hỗ trợ người dân 3,8 triệu tem dán nhận diện sản phẩm an toàn theo chuỗi cung ứng, gần 1,5 triệu tem dán nhận diện sử dụng mã QR truy xuất nguồn gốc sản phẩm đối với các cơ sở xác nhận chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, sản phẩm đạt chứng nhận OCOP trên địa bàn tỉnh, lượng sản phẩm xuất bán hàng năm đạt 15.000 tấn (trong đó phần lớn là sản phẩm chè).

Toàn bộ diện tích chè ở xóm Cầu Đá, xã Hoàng Nông, Đại Từ, được người dân lắp đặt hệ thống tưới tiết kiệm nước nhằm giảm chi phí, công lao động và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm chè. Ảnh: Việt Hùng
Cùng với các cơ chế, chính sách phù hợp, nhằm đưa KHCN đến với người dân, thời gian qua, tỉnh tập trung mở rộng diện tích chè, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu giống chè theo hướng trồng mới, trồng thay thế, cải tạo lại những nương chè trung du, già cỗi, năng suất, chất lượng thấp bằng các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao phục vụ chế biến chè xanh cao cấp, đặc sản.
Việc trồng chè được các địa phương tập trung chỉ đạo, hướng dẫn người dân triển khai thực hiện, với diện tích trồng mới, trồng thay thế trong toàn tỉnh bình quân đạt trên 400ha/năm.
Các địa phương cũng chú trọng đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KHCN trong sản xuất, chế biến chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ để nâng cao chất lượng sản phẩm và góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.
Ông Nguyễn Tá, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, cho biết: Diện tích chè áp dụng quy trình sản xuất an toàn trên địa bàn tỉnh tăng nhanh, nhiều tiến bộ KHCN đã được áp dụng như: Sử dụng phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học, công nghệ tưới tiết kiệm nước trong thâm canh chè. Đồng thời, trên địa bàn tỉnh đã hình thành nhiều vùng sản xuất chè tập trung ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao trong sản xuất và chế biến.

Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến, bảo quản, nâng cao chất lượng sản phẩm chè, nhiều hộ dân ở xóm Trung Thành 2, xã Vô Tranh, Phú Lương, đã đầu tư làm nhà lạnh để bảo quản.
Với nhiều nỗ lực đưa KHCN vào sản xuất, chế biến chè, đến nay, diện tích chè giống mới của tỉnh đạt trên 82%. Hầu hết diện tích chè sản xuất tập trung trên địa bàn tỉnh được áp dụng theo tiêu chuẩn GAP, hữu cơ (với khoảng 17.800ha, trong đó diện tích được cấp chứng nhận VietGAP là trên 5.900ha; diện tích được cấp chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ 120ha; diện tích được cấp chứng nhận đủ điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trên 4.000ha).
Đáng chú ý, sản lượng chè an toàn đạt tiêu chuẩn chứng nhận hầu hết được các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác đầu tư chế biến sâu, đa dạng về chủng loại, mẫu mã sản phẩm, cho giá trị sản xuất cao hơn so với sản xuất thông thường từ 15-25%.
Từ thực tế có thể thấy, Thái Nguyên đã đạt được nhiều kết quả tích cực khi đưa KHCN vào sản xuất, chế biến chè. Tuy nhiên, để tiếp tục nâng cao giá trị cây chè, phát triển mạnh sản xuất, chế biến sản phẩm này, thời gian tới, ngành chè của tỉnh nên lĩnh hội công nghệ cao từ các nước phát triển chè trên thế giới (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…).
Cùng với đó, tỉnh nên dành nhiều kinh phí đầu tư hơn nữa cho hoạt động ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất, sơ chế, chế biến các sản phẩm từ chè; ghi, gắn nhãn hàng hóa sản phẩm chè, tạo dựng thương hiệu, nhãn hiệu tập thể; thực hiện nội dung hỗ trợ tạo dựng thương hiệu sản phẩm chè. Đặc biệt là triển khai mạnh công tác quản lý, sử dụng Chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” đối với sản phẩm chè trên thị trường...