Động kinh: Nguyên nhân, biểu hiện, cách điều trị và phòng bệnh

Động kinh là một rối loạn của hệ thống thần kinh trung ương trong đó hoạt động của não bị thay đổi, gây ra co giật hoặc thời gian hành vi và cảm giác bất thường, đôi khi là mất ý thức trong thời gian ngắn.

1. Nguyên nhân gây động kinh

NỘI DUNG:

1. Nguyên nhân gây động kinh

2. Triệu chứng động kinh

3. Động kinh có lây không?

4. Phòng ngừa động kinh

5. Điều trị động kinh

Bệnh động kinh với biểu hiện đặc trưng là những cơn co cứng, co giật chân tay hoặc toàn thân và không làm chủ được ý thức. Cơn động kinh thường chỉ kéo dài 2-3 phút và sau đó bệnh nhân có thể phục hồi lại trạng thái ban đầu.

Nguyên nhân của bệnh động kinh có thể là do tự phát hoặc xảy ra sau một tổn thương não. Động kinh ở người trên 20 tuổi chủ yếu là do tổn thương tại não như: Chấn thương sọ não, u não, đột quỵ, phình động – tĩnh mạch, nhiễm khuẩn nội sọ (áp xe não, viêm não, viêm màng não), ký sinh trùng (ấu trùng sán lợn, giun chỉ...).

Nguyên nhân khác gây động kinh có thể là do: Rượu, rối loạn điện giải, thiếu O2, ngộ độc CO2, heroin, thuốc chống sốt rét, thuốc chống trầm cảm 3 vòng, bệnh Alzheimer…

Ghi nhận cho thấy, yếu tố bẩm sinh, di truyền cũng có thể xảy ra với bệnh động kinh trong đó có thể kể đến là: Ông bà, bố mẹ bị động kinh; Thiểu năng tâm thần (mẹ bị bệnh do virus ở 3 tháng đầu của thai kỳ).

2. Triệu chứng động kinh

Biểu hiện bệnh động kinh rất đa dạng, điển hình là đa số triệu chứng biểu hiện có tính chất kịch phát, đột ngột; các triệu chứng bệnh lý mạn tính dần dần nặng hơn.

Những biểu hiện của động kinh dưới những hình thức sau:

Động kinh cơn lớn

Động kinh cơn lớn (toàn thể): Động kinh cơn lớn (G.M) hay cơn co cứng – co giật là loại cơn toàn thể điển hình. Triệu chứng đặc trưng nhất là cơn co giật xuất hiện đột ngột "như tiếng sấm giữa trời quang" hay sau những tiền triệu chứng cơn động kinh thoáng qua (aura) ngắn chỉ vài giây và biểu hiện khác nhau.

Các cơn động kinh thoáng qua người bệnh hoa mắt thấy đom đóm, thấy đủ màu sắc xanh đỏ và những màu này biến đổi nhanh chóng. Đôi khi người bệnh thấy một người hay một phần mặt người, thấy đồ vật to ra hay nhỏ lại, thấy cả một cảnh tượng như chưa bao giờ gặp hay đã từng gặp.

Bệnh động kinh với biểu hiện đặc trưng là những cơn co cứng, co giật chân tay hoặc toàn thân và không làm chủ được ý thức.

Bệnh động kinh với biểu hiện đặc trưng là những cơn co cứng, co giật chân tay hoặc toàn thân và không làm chủ được ý thức.

Người bệnh nghe những tiếng đơn giản như tiếng còi, tiếng chuông, tiếng thì thầm, tiếng nói hay điệu nhạc. Người bệnh ngửi thấy mùi trứng thối, mùi cao su cháy khét…Người bệnh cảm thấy nóng bừng ở mặt, cồn cào ở dạ dày, đánh trống ngực, khó thở, vã mồ hôi, nấc, buồn nôn, mót đi đại tiện, nghẹt thở…Người bệnh cảm thấy đau nhức, tê buốt hoặc cảm giác nóng bỏng ở một vùng nào đó của cơ thể.

Người bệnh có cảm giác sợ hãi, cảm giác hạnh phúc, nhớ lại những quãng đời đã qua, cảm thấy mọi sự vật diễn ra quanh mình một cách mơ hồ…

Mỗi người bệnh có cơn động kinh thoáng qua khác nhau, lần nào xuất hiện cũng giống nhau. Những dấu hiệu báo trước, cơn thoáng có thể không xảy ra nhưng động kinh cơn lớn vẫn xuất hiện đột ngột.

Cơn co giật toàn thân bắt đầu đột ngột mất ý thức, ngã bổ nhào xuống bất cứ đâu, nhiều khi kèm theo tiếng thét rống đặc biệt do co thắt khe thanh môn và co cứng các cơ ngực.

Cơn co giật khiến chân tay duỗi cứng, hai bàn tay nắm chặt, đôi khi quay đầu về một phía, hàm khít chặt, răng nghiến. Lồng ngực và cơ hoành bất động ở tư thế thở ra gắng sức, ngừng thở kèm theo ngạt, mặt trở nên tím ngắt. Giai đoạn co cứng kéo dài 15 – 20 giây tối đa 1 phút, rồi bệnh nhân thở sâu ầm ĩ và chuyển sang giai đoạn co giật.

Người bệnh động kinh co giật các cơ toàn thân, hai tay, hai chân co giật nhịp nhàng lúc đầu nhịp chậm, sau nhanh dần, cuối cơn giật thưa dần rồi ngừng hẳn, các cơ mặt cũng co giật, hai hàm răng cắn theo nhịp, mắt trợn ngược.

Bệnh nhân có thể hôn mê thở sâu, đồng tử hai bên giãn nhẹ, mất phản xạ giác mạc, có thể đái dầm, mặt hết tím. Giai đoạn này kéo dài khoảng một phút. Sau đó bệnh nhân tỉnh lại, gọi hỏi bệnh nhân đáp ứng ngay nhưng có thể lú lẫn trong vài phút.

Động kinh cục bộ

Cơn cục bộ đơn giản (không có rối loạn ý thức) với các triệu chứng vận động: cục bộ vận động, với các triệu chứng cảm giác hoặc giác quan: rối loạn cảm giác bản thể, ảo thị giác, ảo khứu giác, cơn chóng mặt.

Cơn cục bộ phức tạp (có rối loạn ý thức): Khởi phát cục bộ đơn giản, tiếp theo là cục bộ phức tạp. Khởi phát là rối loạn ý thức: rối loạn ý thức với các biểu hiện tự động.

Động kinh cơn nhỏ

Xảy ra chủ yếu ở trẻ em từ 5 – 12 tuổi, con gái nhiều hơn con trai. Biểu hiện xuất hiện đột ngột và ngừng cơn cũng đột ngột. Bệnh nhân bỗng nhiên ở tư thế bất động, ngắt quãng các hoạt động đang làm dở (đang đi, viết, nói chuyện, đang nhai khi ăn, đánh rơi đồ vật đang cầm ở tay… thì dừng lại). Mặt tái, mắt ngơ ngác.

Mất hoàn toàn ý thức khoảng 3 – 5 giây, sau đó tỉnh lại tiếp tục ngay các hoạt động và không biết mình vừa lên cơn động kinh. Cơn vắng ý thức có thể xuất hiện vài chục lần một ngày và xảy ra lúc người bệnh bị xúc động, thở sâu.

3. Động kinh có lây không?

Động kinh xảy ra sau một tổn thương não hoặc không rõ nguyên nhân vì vậy, không phải là bệnh lây nhiễm nên động kinh là bệnh không lây nhưng có thể có tính chất gia đình. Nếu ông bà, bố mẹ bị động kinh thì thế hệ sau đó có thể có nguy cơ mắc phải căn bệnh này.

4. Phòng ngừa động kinh

Động kinh do nhiều nguyên nhân và có tính chất gia đình, di truyền thậm chí không rõ nguyên nhân nên việc phòng ngừa khó khăn. Tuy nhiên, việc phòng bệnh động kinh do các yếu tố nguy cơ có thể được áp dụng, cụ thể.

Phòng ngừa tình trạng chấn thương đầu, chẳng hạn như giảm nguy cơ té ngã, chấn thương khi chơi thể thao, tai nạn giao thông… là cách hiệu quả để phòng tránh chứng động kinh sau chấn thương.

Chăm sóc chu sinh đầy đủ có thể giúp làm giảm những ca trẻ sinh ra bị bệnh động kinh do chấn thương khi sinh.

Đối với trẻ bị sốt cao, đi khám hoặc dùng thuốc và áp dụng những phương pháp khác để giúp hạ nhiệt độ cơ thể phù hợp có thể làm giảm nguy cơ gặp chứng co giật do sốt.

Để ngăn ngừa bệnh động kinh liên quan đến đột quỵ, mỗi người cần tập trung vào việc làm giảm những yếu tố nguy cơ liên quan, chẳng hạn như các biện pháp ngăn ngừa/kiểm soát tình trạng tăng huyết áp, béo phì, tiểu đường, tránh dùng quá nhiều rượu, tránh hút thuốc.

Nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương là tác nhân phổ biến dẫn đến bệnh động kinh tại những vùng nhiệt đới. Việc loại bỏ ký sinh trùng và áp dụng biện pháp tránh nhiễm trùng có thể giúp làm giảm nguy cơ bị động kinh (chẳng hạn như động kinh do bệnh sán não).

Thăm khám sức khỏe thần kinh định kỳ để chủ động tầm soát, phát hiện sớm các bất thường có thể gây ra động kinh.

5. Điều trị động kinh

Bệnh động kinh cần được điều trị càng sớm càng tốt nhằm kiểm soát hoàn toàn các cơn, tránh các ảnh hưởng xấu như giảm sút trí tuệ và biến đổi nhân cách cũng như trạng thái động kinh liên tục.

Ngày nay việc điều trị toàn diện bằng thuốc, phẫu thuật, chế độ ăn uống, sinh hoạt, phục hồi chức năng… đem lại nhiều kết quả tốt. Tùy từng trường hợp cụ thể mà các bác sĩ sẽ chỉ định phù hợp.

Khởi đầu bằng một loại thuốc duy nhất. Thuốc được chọn phải phù hợp với thể động kinh, ít tác dụng phụ, rẻ tiền, phù hợp với đặc điểm cơ thể người bệnh. Bắt đầu bằng liều thấp rồi tăng dần để tìm được liều hữu hiệu. Liều thuốc cho hàng ngày được tính theo mg/kg cân nặng, không tính theo tuổi, có thể thay đổi chút đỉnh tùy từng người. Ở trẻ con liều này có phần cao hơn người lớn.

Việc sử dụng cùng lúc nhiều thuốc kháng động kinh chỉ cần thiết khi một loại thuốc (đã đạt đến liều cao nhất) mà không có kết quả. Khi kết hợp các thuốc khác cần để ý đến tác dụng qua lại giữa chúng cũng như ảnh hưởng trên các thuốc để tránh ngộ độc.

Phần lớn các loại thuốc kháng động kinh đều có thời gian bán hủy khá dài nên chỉ cần cho một lần duy nhất trong ngày. Riêng các thuốc Tegretol, Primidone và Deparkine nên chia liều 2 – 3 lần/ngày.

Không kết hợp Phenobarbital và Primidone vì gây quá liều. Các thuốc kháng động kinh chỉ thực sự có tác dụng khi đạt một nồng độ trong máu ổn định sau một thời gian dùng thuốc.

Điều trị bệnh động kinh phải dùng thuốc liên tục không được tự động ngừng thuốc. Loại trừ nhân tố có hại như: Rượu, rối loạn giấc ngủ, chấn thương tâm lý, nhiễm trùng, nhiễm độc…

Tóm lại: động kinh thường được điều trị bằng thuốc chống động kinh và điều trị nguyên nhân dẫn đến cơn động kinh. Loại thuốc sẽ dựa trên loại động kinh, tần suất, tuổi tác và sức khỏe tổng thể.

Người bệnh không được tự ý thay đổi liều lượng hay ngưng sử dụng thuốc mà không hỏi ý kiến của bác sĩ. Nếu gặp các tác dụng phụ nghiêm trọng thì cần gọi cho bác sĩ hoặc đi tái khám.

Nếu tình trạng động kinh không cải thiện hoặc cải thiện ít khi dùng thuốc chống co giật, có thể xem xét phẫu thuật.

BS. Phạm Thanh Phương

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/dong-kinh-nguyen-nhan-bieu-hien-cach-dieu-tri-va-phong-benh-169250313084134822.htm
Zalo