Dòng họ nào lâu đời nhất Việt Nam, có từ thời vua Hùng?
Đây là dòng họ lâu đời nhất nước ta, cụ tổ của dòng họ này là con của Hùng Nghị Vương thứ 3 năm 354 trước Công nguyên.

1. Dòng họ nào lâu đời nhất Việt Nam, có từ thời Hùng Vương?
A
Họ Bùi
B
Họ Ma
Tộc trưởng dòng họ Ma ở Phú Thọ - ông Ma Ngọc Bảo cho rằng, dòng họ có từ thời vua Hùng, là dòng họ lâu đời nhất Việt Nam, có nhiều công lao dựng nước và giữ nước. Nổi bật trong dòng họ là Ma Tộc Thần Tướng – Ma Xuân Trường.
Cụ tổ Ma Khê là con Hùng Nghị Vương, năm 354 trước Công nguyên.
C
Họ Nguyễn
D
Họ Trần

2. Ma Khê được phong tặng tước gì sau khi giúp vua Hùng dẹp loạn?
A
Quốc công
B
Thừa tướng quân
C
Thượng tướng quân
D
Đại tướng quân
Họ Ma là người dân tộc Tày, định cư chủ yếu ở vùng núi Đọi, ven sông Thao, nay thuộc đất Cẩm Khê, Phú Thọ. Cụ tổ Ma Khê là người tài đức song toàn, từ nhỏ bộc lộ nhiều khả năng xuất chúng.
Năm 18 tuổi, ông thay cha giữ chức tộc trưởng đứng đầu bộ tộc Tày núi Đọi. Đến đời Hùng Vương thứ 18, gặp lúc trong nước có giặc, ông mang dân binh Ma tộc về giúp vua Hùng đánh giặc, lập nên nhiều chiến công lớn, được Hùng Duệ Vương yêu mến và phong chức Đại tướng quân. Sau đó, ông được giao nhiệm vụ trấn thủ đất Phong Châu, đóng quân ở ngã ba sông Bạch Hạc.
Với nhiều công lao to lớn, Ma Khê được Hùng Duệ Vương thứ hai phong cho đến chức Phụ Quốc Ma Vương Đại Thần, Đại Tướng Quân và triệu về triều đình giúp vua trị nước an dân.

3. Đền Trù Mật ở Phú Thọ thờ vị tướng nào của dòng họ Ma?
A
Ma Khê
B
Ma Xuân Trương
Theo lịch sử ghi lại, sau khi xảy ra biến cố năm 944, Kiều Thuận chạy về đất Ma Khê, rồi liên kết với Tộc trưởng Ma Xuân Trường ở Phú An, dựng đồn binh ở bãi sông, lập ấp định cư ở Trù Mật, dần dần hình thành lực lượng cát cứ tại địa phương bảo vệ dân hai làng Phú An, Trù Mật và lãnh địa của ông khỏi bị cảnh cướp bóc, xâu xé của các lực lượng đối nghịch khác, giữ cho dân an cư lạc nghiệp.
Cảm phục trước tài đức, công ơn của các vị tướng quân, nhân dân hai làng Phú An, Trù Mật lập đền thờ Kiều Thuận và Ma Xuân Trường để thường xuyên hương khói, tưởng nhớ người có công với nước với dân. Người dân tôn vinh Kiều Thuận làm thành hoàng thờ ở đình làng, Ma Xuân Trường là Ma tộc thần tướng.
C
Ma Văn Thực
D
Ma Ngọc Bảo

4. Tướng quân Ma Xuân Trường thuộc đời thứ mấy của dòng họ Ma?
A
40
B
41
C
42
D
43
Theo lời kể trong Ngọc Phả dòng họ Ma, kể từ sau đời cụ tổ Ma Khê, họ Ma lui về ẩn dật, làm ruộng. Mãi cho đến đời thứ 43, một người con của dòng họ là Ma Xuân Trường (930 - 966) đi vào sử sách nước nhà. Thời điểm đó là thời nhà Ngô tan rã, đất nước rơi vào loạn 12 sứ quân. Vùng phía Bắc do một người là Kiều Thuận cai quản với vị tướng dưới quyền là Ma Xuân Trường.
Trong cuộc chiến 12 sứ quân, Ma Xuân Trường có công giải cứu Kiều Thuận khi bị thương. Sau đó Ma Xuân Trường đưa cả họ tộc chạy lên Tuần Quán, Yên Bái thì qua đời tại đây, thọ 36 tuổi. Hiện ở Tuần Quán vẫn còn miếu thờ ông. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua, lấy hiệu Đinh Tiên Hoàng. Ông đã không trị tội Kiều Thuận, mà để an dân, ông còn phong danh hiệu “Trung quân ái quốc”, và ban cho dân lập đền thờ.
Ngôi đền ấy giờ đây nằm bình yên, nép bóng bên con đường làng xanh tươi ở làng Trù Mật, thị xã Phú Thọ. Ngôi đền gắn liền với lịch sử thị xã Phú Thọ được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia này được xây dựng năm 970 và nay được trùng tu nhiều lần. Nơi đây thờ “Cương nghị đại vương” Kiều Thuận và “ Ma tộc thần tướng” Ma Xuân Trường.

5. Dòng họ nào đông nhất Việt Nam?
A
Họ Ma
B
Họ Trần
C
Họ Nguyễn
Trong cuốn Họ và tên người Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học xã hội), PGS.TS Lê Trung Hoa thống kê toàn bộ những họ được ghi nhận trên lãnh thổ nước ta, con số này tăng lên qua các lần tái bản. Cụ thể, trong bản in đầu tiên năm 1992, có 769 họ được thống kê, trong đó người Kinh có 164 họ.
Ở các lần tái bản, số họ của người Kinh thay đổi rất ít, nhưng rất nhiều họ của đồng bào các dân tộc khác được nhóm nghiên cứu của TS Lê Trung Hoa ghi nhận.
Trong bản in lần thứ ba (năm 2005), số họ được thống kê tăng thành 1020, riêng số họ của người Kinh vẫn giữ nguyên. Sau khi sách in xong, nhóm nghiên cứu phát hiện thêm 3 họ nữa, nghĩa là đến thời điểm đó, có 1023 họ được ghi nhận trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong đó, họ Nguyễn đông nhất, chiếm đến 38,4% dân số. Đứng thứ hai là họ Trần với 12,1%, họ Lê 9,5%, họ Phạm 7%, họ Hoàng/Huỳnh 5,1%, họ Phan 4,5%, họ Vũ/Võ 3,9%. Chỉ riêng 7 dòng họ này đã chiếm đến 80,5% dân số. Các họ cũng khá đông khác là Đặng (2,1% dân số), Bùi (2%), Đỗ (1,4%), Hồ (1,3%), Ngô (1,3%), Dương (1%), Lý (0,5%).
D
Họ Lê
