Đời sống cư dân Văn Lang: Từ trồng lúa nước đến nghề thủ công
Thời đại Hùng Vương ghi dấu sự hình thành nhà nước sơ khai, với cư dân Văn Lang sống bằng nông nghiệp lúa nước và nhiều nghề thủ công tinh xảo, phản ánh xã hội có tổ chức và phân hóa tầng lớp rõ rệt.
Nông nghiệp lúa nước: Cơ sở kinh tế vững chắc
Những nghiên cứu khảo cổ tại các di chỉ thuộc văn hóa Đông Sơn đã cung cấp bằng chứng về một nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ thời Hùng Vương. Các nhà khoa học đã phát hiện nhiều công cụ nông nghiệp bằng đồng, như lưỡi cày, lưỡi cuốc, dao gặt, liềm, phản ánh một phương thức canh tác có hệ thống.
Hạt lúa cháy tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ như Đồng Đậu, Làng Cả, Phùng Nguyên… cho thấy lúa nước là cây lương thực chủ đạo. Ngoài ra, cư dân còn trồng thêm đậu, khoai để đa dạng hóa nguồn thực phẩm.
Ngoài trồng trọt, chăn nuôi cũng giữ vai trò quan trọng. Các xương động vật được tìm thấy tại di chỉ Đông Sơn cho thấy cư dân Văn Lang đã thuần dưỡng trâu, bò, lợn, gà để phục vụ sản xuất và đời sống.
Việc phát triển nông nghiệp không chỉ giúp đảm bảo nguồn lương thực mà còn tạo ra nền tảng để xã hội có sự phân hóa lao động, xuất hiện các nhóm người chuyên trách các ngành nghề khác ngoài trồng trọt.

Các công cụ sản xuất được tìm thấy tại di chỉ Đồng Đậu - Vĩnh Phúc. Ảnh Báo Vĩnh Phúc
Theo GS.TS Trịnh Sinh (Viện Hàn lâm khoa học Xã hội Việt Nam): "Nông nghiệp lúa nước là nền tảng kinh tế chủ đạo của cư dân Văn Lang. Sự phát triển của nông nghiệp không chỉ giúp duy trì đời sống mà còn tạo điều kiện cho quá trình tích lũy, phân hóa xã hội và hình thành một thiết chế chính trị sơ khai".
Nghề thủ công: Bước tiến của xã hội Văn Lang
Sự ổn định của nền kinh tế nông nghiệp đã tạo điều kiện cho nhiều nghề thủ công phát triển, trong đó nổi bật nhất là nghề đúc đồng, làm gốm, dệt vải và chế tác đá, xương, sừng.
Những di vật khảo cổ như trống đồng Đông Sơn, lưỡi rìu, giáo mác, mũi tên đồng cho thấy cư dân Văn Lang đã đạt đến trình độ luyện kim tiên tiến. Nhiều khuôn đúc bằng đá và đất nung được phát hiện tại các di chỉ Đông Sơn, chứng minh rằng kỹ thuật đúc đồng theo phương pháp khuôn hai mang đã phổ biến rộng rãi.

Trống đồng Đông Sơn. Ảnh Wikipedia
Gốm Văn Lang có đặc điểm riêng biệt, với các hoa văn khắc vạch, văn chải thừng và văn in chấm. Các hiện vật như nồi, vò, bát, đĩa cho thấy nghề làm gốm không chỉ phục vụ sinh hoạt mà còn có thể liên quan đến nghi lễ tín ngưỡng.

Một số mảnh gốm được tìm thấy tại di chỉ Đồng Đậu - Vĩnh Phúc. Ảnh Báo Vĩnh Phúc
Sự phát hiện của dọi xe chỉ khung dệt và các mảnh vải còn sót lại trong các di chỉ khảo cổ cho thấy người Văn Lang đã biết dệt vải. Đây là bước tiến quan trọng giúp cư dân Văn Lang chuyển từ mặc vỏ cây sang sử dụng quần áo dệt thủ công.
Nhiều công cụ bằng đá như rìu, búa, dao, cùng với đồ trang sức làm từ xương, ngà, vỏ sò, hạt chuỗi ngọc cho thấy cư dân Văn Lang không chỉ tập trung vào sản xuất nông nghiệp mà còn có nhu cầu thẩm mỹ và giao thương.
Sự phân hóa xã hội qua sản xuất
Việc xuất hiện các tầng lớp lao động chuyên biệt đã kéo theo sự phân tầng xã hội. Các phát hiện khảo cổ về mộ táng cung cấp bằng chứng quan trọng về điều này: Mộ quý tộc thường có nhiều đồ tùy táng giá trị như trống đồng, vũ khí, đồ trang sức, thể hiện quyền lực và sự giàu có; Mộ dân thường chỉ có các công cụ sản xuất đơn giản như rìu đá, đồ gốm.
Ngoài ra, hình ảnh trên trống đồng Đông Sơn mô tả các nghi lễ hiến tế, cảnh chiến binh cầm vũ khí, thuyền chiến… cho thấy xã hội Văn Lang đã có tổ chức quyền lực nhất định, với sự hiện diện của các tầng lớp thủ lĩnh, thợ thủ công, nông dân và chiến binh.

Xã hội đã có sự phân chia giai cấp, đứng đầu là Vua Hùng. Ảnh minh họa
GS.TS Trịnh Sinh khẳng định: "Chính từ nền tảng kinh tế đa dạng và xã hội có tổ chức, một thực thể chính trị sơ khai đã hình thành trong thời đại Hùng Vương. Nhà nước Văn Lang, dù chưa hoàn thiện, nhưng là bước tiến quan trọng trong lịch sử hình thành nhà nước ở Việt Nam".
Nghiên cứu về đời sống cư dân Văn Lang giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phát triển của xã hội Việt cổ, đồng thời khẳng định những giá trị văn minh lâu đời của tổ tiên người Việt.