Doanh nghiệp tự chủ nguồn nguyên liệu sạch: Khó cũng phải làm

Việc chinh phục thị trường tiêu dùng xanh trên toàn cầu sẽ càng 'rộng cửa' với các doanh nghiệp Việt một khi sớm tự chủ được nguồn nguyên liệu sạch. Dẫu biết điều này không hề dễ dàng nhưng khó cũng phải làm, có như vậy mới giảm được giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh và vừa tránh biến động giá từ nguồn nhập khẩu.

Nói về việc tự chủ nguồn nguyên liệu sạch là củ sắn mì để phục vụ cho việc chế biến và xuất khẩu (XK) các sản phẩm bánh khoai mì dinh dưỡng, ông Mai Tuấn Anh, Giám đốc Công ty TNHH Yam Kitchen (Tp.HCM), nhấn mạnh điều quan trọng là tận dụng nông sản bản địa ở địa phương với yêu cầu phương thức canh tác phải đáp ứng các tiêu chuẩn về sạch và xanh.

Tận dụng ngay tại địa phương

Như chia sẻ của vị giám đốc này, Việt Nam có 5.000ha đất canh tác củ sắn mì, mỗi năm thu hoạch 10 triệu tấn củ tươi (đa phần là giống sắn mì cao sản). Nếu như các doanh nghiệp (DN) bao tiêu được sản phẩm, sẽ giúp bà con nông dân trồng củ sắn mì rất nhiều, đồng thời sẽ hạ được giá thành sản phẩm.

Nhu cầu sử dụng nguyên liệu vải không dệt ở Việt Nam là rất lớn nhưng nguồn cung trong nước không đáp ứng được nên vẫn còn phụ thuộc vào nhập khẩu (nhất là từ Trung Quốc).

Nhu cầu sử dụng nguyên liệu vải không dệt ở Việt Nam là rất lớn nhưng nguồn cung trong nước không đáp ứng được nên vẫn còn phụ thuộc vào nhập khẩu (nhất là từ Trung Quốc).

Trong đó, riêng với việc sử dụng nguyên liệu là giống củ sắn mì dùng để ăn (khác với giống sắn mì cao sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến), trao đổi với VnBusiness, ông Mai Tuấn Anh cho biết lợi thế cạnh tranh của công ty là chi phí không cao vì tự chủ được nguồn nguyên liệu tại địa phương (huyện Củ Chi, Tp.HCM), chưa kể nguyên liệu chế biến rất có lợi cho sức khỏe.

Hơn nữa, vị giám đốc Công ty Yam Kitchen cho biết việc canh tác vùng nguyên liệu củ sắn mì dùng để ăn cũng dễ dàng đạt chuẩn “Organic” (canh tác hữu cơ) vì người nông dân hầu như không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Từ đó giúp cho sản phẩm bánh chế biến từ củ sắn mì có được thiện cảm với người tiêu dùng trong và ngoài nước.

“Hiện tại chúng tôi thu mua đều đặn nguồn nguyên liệu củ sắn mì từ bà con nông dân ở địa phương. Sắp tới công ty sẽ áp dụng tiêu chuẩn VietGap cho những farm (nông trại) đã bao tiêu. Bởi vì định hướng của công ty là sẽ XK sản phẩm đi Mỹ, phải đạt chứng nhận Organic USDA (chứng nhận hữu cơ của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ) nên cần áp dụng các tiêu chuẩn cho người nông dân quen dần, từ VietGap rồi tiến đến là GlobalGap hoặc là USDA. Từ đó chúng tôi thu mua nguyên liệu của nông dân với mức giá cao hơn với tiêu chuẩn cao hơn để XK sang các thị trường lớn hơn”, ông Mai Tuấn Anh bộc bạch.

Có thể thấy việc tự chủ, tận dụng nguồn nguyên liệu sạch ngay tại địa phương của một DN nội địa trong ngành thực phẩm như kể trên (để hướng đến chinh phục thị trường tiêu dùng xanh trên toàn cầu) rất cần được nhân rộng ở nhiều lĩnh vực sản xuất quan trọng khác. Bởi trên thực tế, không phải DN nào cũng ý thức được việc này.

Như lưu ý của bà Đỗ Thị Minh Trâm, Phó cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) tại Triển lãm quốc tế chuyên ngành vải không dệt và vệ sinh công nghiệp, dân dụng Việt Nam - GENTEXH 2025 (tổ chức ở Tp.HCM từ ngày 12 đến 14/3 với quy mô 200 thương hiệu hàng đầu trong ngành công nghiệp vải không dệt), đó là mặc dù nhu cầu sử dụng các nguyên liệu thân thiện với môi trường ở thị trường trong nước đầy tiềm năng nhưng số lượng các nhà máy sản xuất vải không dệt tại Việt Nam vẫn còn hạn chế.

Theo bà Trâm, các DN trong nước vẫn gặp nhiều thách thức trong việc tiếp cận các công nghệ hiện đại và máy móc tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Trong khi đó, riêng với công nghiệp vải không dệt (có nhiều đặc tính thân thiện với môi trường và giảm thiểu chi phí sản xuất, đảm bảo vệ sinh an toàn) đang có nhu cầu ngày càng tăng trên nhiều lĩnh vực như y tế, vệ sinh, nông nghiệp và công nghiệp. Theo dự báo, thị trường vải không dệt trên toàn cầu sẽ đạt 76,5 tỷ USD vào năm 2029 với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 6,2%.

Càng tự chủ sẽ càng “rộng cửa”

Qua chia sẻ từ một vị phó cục trưởng quản lý ở lĩnh vực liên quan đến chuyển đổi xanh như vậy, để thấy còn nhiều việc phải làm để ngành dệt may trong nước có thể tự chủ nguồn nguyên liệu sạch. Điều này được nhìn thấy rõ với công nghiệp vải không dệt, dù dư địa thị trường rất lớn nhưng các DN nội địa vẫn chưa nắm bắt được cơ hội này thông qua việc đầu tư mở rộng các nhà máy sản xuất vải không dệt.

Với ngành dệt may của Việt Nam nói chung, giới chuyên gia cho rằng việc tự chủ nguyên liệu nói chung và nguyên liệu sạch nói riêng vẫn là thách thức lớn khi ngành công nghiệp phụ trợ cung ứng còn chậm phát triển. Để đạt được mục tiêu tự chủ về nguyên, phụ liệu, ngành này cần có chiến lược dài hạn và sự hỗ trợ từ Nhà nước về cơ chế, chính sách, nguồn lực.

Trong khi đó, nếu ngành dệt may tiếp tục phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, thì chính các DN nội địa sẽ chịu tác động tiêu cực khi mà nhiều thị trường nhập khẩu lớn hướng tới mục tiêu Net Zero 2050 đang đặt ra các quy định khắt khe về kiểm soát nguồn cung.

Thực tại, đa số các DN dệt may nội địa vẫn thực hiện theo phương thức gia công XK (phương thức có giá trị gia tăng tương đối thấp, nằm ở vị trí đáy của chuỗi giá trị dệt may) do một phần từ sự kém phát triển của ngành dệt, khiến đa số doanh nghiệp may không chủ động được nguồn nguyên liệu, nhất là nguyên liệu sạch, phải nhập khẩu vải theo chỉ định và chỉ thực hiện công đoạn gia công XK. Trong khi đó, các sản phẩm may mặc có chi phí vải chiếm đến 70-80% giá thành, phần giá trị gia tăng còn lại rất nhỏ.

Chính vì vậy, điều mà các DN dệt may nội địa cần làm là cải thiện năng lực sản xuất nguyên liệu vải (đơn cử như nguyên liệu sạch là vải không dệt), đảm bảo giải quyết “nút thắt cổ chai” trong chuỗi cung ứng. Điều quan trọng là họ cần từng bước xây dựng một chuỗi cung ứng sạch khép kín từ sợi – dệt – nhuộm – may mặc.

Điều này bắt nguồn từ khâu sản xuất nguyên liệu, nếu có sự chủ động, tự chủ từ nguồn nguyên liệu sạch thì các DN Việt có thể tạo ra các mẫu thiết kế phù hợp với nhu cầu tiêu dùng xanh trên thị trường quốc tế, đồng thời đáp ứng được yêu cầu xuất xứ từ các hiệp định thương mại tự do (FTA).

Từ đó cũng giúp các DN Việt giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu (với rủi ro biến động giá cả), tận dụng được tối đa ưu đãi thuế quan trong các FTA, thúc đẩy các DN nội địa trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ gia tăng nghiên cứu, đổi mới sáng tạo để đáp ứng yêu cầu nguyên liệu đầu vào.

Nói chung, một khi sớm tự chủ được nguồn nguyên liệu sạch thì việc chinh phục thị trường tiêu dùng xanh trên toàn cầu sẽ càng “rộng cửa” với các DN Việt. Cú chuyển mình mang tính chủ động như vậy sẽ thúc đẩy những thay đổi cho các DN, đặc biệt là giảm được giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh. Còn nếu như các công ty không thích ứng kịp với chuyện này sẽ có nguy cơ bị tụt lại ở phía sau.

Thế Vinh

Nguồn Vnbusiness: https://vnbusiness.vn//viet-nam/doanh-nghiep-tu-chu-nguon-nguyen-lieu-sach-kho-cung-phai-lam-1105454.html
Zalo