Định vị sức mạnh Việt Nam - Bài 5: Tư duy cán bộ, trình độ lao động
Việt Nam cần một cú hích lớn về thể chế, từ cải cách hành chính, đồng bộ quy hoạch, đến thay đổi tư duy quản lý; đây không chỉ là câu chuyện riêng của Nhà nước mà còn cần sự tham gia phối hợp của doanh nghiệp và người dân. TS Phạm Trọng Nghĩa - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, nhận định.
Ưu tiên bổ nhiệm cán bộ có tư duy hiện đại
Nhiều ý kiến cho rằng, chúng ta có lợi thế nhưng lại thiếu cơ chế đồng bộ, dẫn đến mỗi địa phương làm theo một kiểu, thiếu đồng bộ, manh mún, xé lẻ. Vậy phải làm gì để biến lợi thế, tiềm lực thành sức mạnh thực sự, thành tựu cụ thể, theo ông?
Trước hết, tôi cho rằng, cần phải có hệ thống chính sách, pháp luật, quy hoạch tổng thể và đồng bộ. Theo đó, cần một chiến lược quốc gia rõ ràng, phân định vai trò của từng địa phương dựa trên lợi thế cạnh tranh riêng. Ví dụ, tỉnh này tập trung phát triển du lịch, tỉnh kia làm trung tâm logistics, tránh tình trạng “trăm hoa đua nở”.

TS. Phạm Trọng Nghĩa là nghiên cứu sinh sau tiến sĩ về Quản trị toàn cầu tại Đại học Princeton, Mỹ (2015-2016) và tại Đại học Oxford, Vương quốc Anh (2016-2017).
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Bộ Chính trị đã ban hành 6 nghị quyết về 6 vùng kinh tế - xã hội. Quốc hội đã thông qua 3 quy hoạch cấp quốc gia. Thủ tướng đã phê duyệt quy hoạch 6 vùng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và đã phê duyệt các quy hoạch tỉnh nhằm định hướng, kiến tạo không gian phát triển cho đất nước. Trong bối cảnh thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy, các quy hoạch này cần sớm được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. Đồng thời, sau khi điều chỉnh, quy hoạch phải được thực thi nghiêm ngặt từ Trung ương đến địa phương.
Thứ nữa, phát huy lợi thế tài nguyên, con người, đầu tư vào công nghệ và nhân lực để nâng cao giá trị sản phẩm. Đồng thời, cần phải thay đổi tư duy, văn hóa quản lý. Tư duy cục bộ, ngắn hạn và ngại thay đổi là rào cản rất lớn. Do đó, cần có cơ chế để tuyển chọn, đào tạo đội ngũ lãnh đạo địa phương, trung ương theo hướng hiện đại, khuyến khích học hỏi từ các mô hình thành công quốc tế. Ngoài ra, cần khuyến khích sự tham gia của người dân, doanh nghiệp vào quá trình ra quyết định, để chính sách sát với thực tế hơn.
Cùng một thể chế, lợi thế, có tỉnh, thành phát triển rất tốt, nhưng có nơi còn chậm. Theo ông, nguyên nhân này do đâu, và phải khắc phục thế nào để từng địa phương bứt phá?
Trong cùng một thể chế, vẫn có sự chênh lệch lớn về phát triển giữa các địa phương. Điều này không chỉ có nguyên nhân chính từ khác biệt về tiềm năng tự nhiên hay vị trí địa lý, mà còn cho thấy một nút thắt quan trọng về năng lực thực thi chính sách.
Để giải quyết vấn đề này, trước hết, chúng ta nên khuyến khích sáng tạo và chịu trách nhiệm. Bên cạnh thực thi cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, cần cơ chế khen thưởng lớn cho những lãnh đạo địa phương có sáng kiến đột phá.

Theo chuyên gia, cần biến lợi thế nguồn nhân lực thành “vũ khí” chủ lực. Ảnh: Như Ý
Đi kèm với đó, cần nâng cao chất lượng cán bộ, công chức; tăng cường đào tạo, trẻ hóa đội ngũ cán bộ, ưu tiên bổ nhiệm cán bộ có tư duy hiện đại, thay vì giữ mãi những cán bộ ngại thay đổi. Đồng thời, đưa ra bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả rõ ràng và công khai kết quả để tạo áp lực cạnh tranh lành mạnh giữa các địa phương.
Ngoài ra, để tăng cường kết nối và tận dụng lợi thế sẵn có, mỗi địa phương cần xác định rõ lợi thế cạnh tranh của mình để xây dựng một chiến lược cụ thể. Đồng thời, tạo cơ chế đối thoại công - tư để doanh nghiệp địa phương góp ý cho lãnh đạo, từ đó xây dựng chính sách sát thực tế để nhận được sự ủng hộ và đồng thuận cao.
Thay đổi tư duy lãnh đạo, nâng cao năng suất lao động
Tổng Bí thư Tô Lâm từng chia sẻ, được báo cáo về những thành tích xuất khẩu rất ấn tượng: Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu điện thoại di động thông minh; đứng thứ năm thế giới về xuất khẩu linh kiện máy tính…, nhưng đã bao giờ chúng ta nhìn sâu vào bản chất những số liệu này? Chúng ta đóng góp được bao nhiêu % giá trị trong đó, hay chủ yếu là gia công cho nước ngoài? Đây liệu có phải là “ngộ nhận”, “tự huyễn hoặc”, “tự ru mình” không? Theo ông, bộ, ngành liên quan phải làm gì để có những giải pháp thiết thực, hiệu quả cho vấn đề này?
Vấn đề Tổng Bí thư nêu trên rất thực tế và sâu sắc. Việt Nam có những con số xuất khẩu ấn tượng, nhưng giá trị thực sự mà chúng ta đóng góp vào chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế, chủ yếu nằm ở khâu gia công - phân khúc thấp nhất. Các câu hỏi của Tổng Bí thư là lời cảnh tỉnh quan trọng để tránh tâm lý lạc quan bằng những thành tích bề mặt.
Để trả lời câu hỏi “các bộ, ngành liên quan phải làm gì” là vấn đề lớn. Nhưng theo tôi, trước tiên chúng ta cần đánh giá một cách toàn diện về giá trị gia tăng thực sự của Việt Nam trong ngành xuất khẩu chủ lực (điện thoại, linh kiện máy tính, dệt may...). Cụ thể, phải tính toán tỷ lệ nội địa hóa, giá trị lao động, lợi nhuận thực tế mà Việt Nam thu về, thay vì chỉ nhìn vào tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ đó, đặt ra các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về tăng giá trị thay vì chỉ chạy theo số lượng hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, cần chuyển dịch từ gia công sang sáng tạo và sản xuất giá trị cao để tăng lợi nhuận và giảm phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Theo đó, cần tăng ngân sách cho nghiên cứu công nghệ, khuyến khích doanh nghiệp trong nước phát triển sản phẩm riêng; xây dựng thương hiệu quốc gia; có chính sách ưu đãi vượt trội cho các doanh nghiệp đầu tư vào khâu thiết kế, sản xuất linh kiện thay vì chỉ lắp ráp.
Tập trung đầu tư cho phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao chuỗi giá trị nội địa cũng là vấn đề quan trọng phải hướng đến. Nhà nước cần làm cầu nối giữa doanh nghiệp Việt và các tập đoàn nước ngoài, đặt điều kiện để các tập đoàn này chuyển giao công nghệ hoặc sử dụng linh kiện nội địa nhiều hơn…
Điều quan trọng là phải thay đổi tư duy lãnh đạo và chính sách, đưa tiêu chí nâng cao giá trị chuỗi cung ứng vào thước đo thành tích của các bộ, ngành, địa phương, thay vì chỉ dựa trên con số xuất khẩu. Tạo cơ chế thưởng phạt rõ ràng để các lãnh đạo dám thay đổi, dám chịu trách nhiệm.
Lâu nay, chúng ta thường so sánh năng suất lao động giữa Việt Nam với Singapore. Từ câu chuyện Singapore gợi mở gì cho Việt Nam phát huy những lợi thế của mình, theo ông?
Đây là câu hỏi rất thú vị, đặc biệt khi nhắc đến sự so sánh về chất lượng lao động giữa Singapore và Việt Nam - một vấn đề thường được đề cập để phản ánh khoảng cách về năng suất và giá trị gia tăng của nguồn nhân lực. Từ câu chuyện của Singapore, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học để phát huy lợi thế của Việt Nam, đặc biệt là nguồn lao động của thời kỳ dân số vàng.
Như chúng ta đã biết, năng suất lao động cao là chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng của quốc gia. Trong thời gian qua, năng suất lao động của nước ta có sự cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, tốc độ tăng chưa đủ nhanh, nên khoảng cách về năng suất lao động giữa nước ta với các nước trong khu vực vẫn còn rất xa. Trong khi đó, Singapore là một quốc gia nhỏ bé với dân số chỉ gần 6 triệu người, không có tài nguyên thiên nhiên đáng kể, tuy nhiên, nước bạn đã biến nguồn nhân lực thành “vũ khí” chủ lực để phát triển.
Việt Nam có lợi thế lớn về dân số với hơn 100 triệu người và vẫn đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, tỷ trọng dân số từ 15 - 64 tuổi chiếm 67,4%. Thời kỳ cơ cấu dân số vàng chỉ diễn ra một lần trong vòng đời của một quốc gia. Đây là vốn quý, nhưng nếu không đầu tư đúng cách, lợi thế này sẽ trôi qua vô ích, chúng ta sẽ có lỗi với các thế hệ mai sau.
“Để một địa phương vươn mình trong kỷ nguyên mới, người đứng đầu mỗi địa phương cần có trí tuệ và tầm nhìn chiến lược, hiểu rõ lợi thế của địa phương, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, lãnh đạo địa phương cần có khả năng dẫn dắt, truyền động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức, người dân và doanh nghiệp - biến cả địa phương thành một khối đoàn kết, đồng lòng” TS Phạm Trọng Nghĩa -Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội
Để phát huy lợi thế của mình, chúng tôi cho rằng, cần có chiến lược phối hợp giữa giáo dục chất lượng cao, công nghệ hiện đại, và chính sách linh hoạt. Đây sẽ là chìa khóa để biến tiềm năng dân số thành động lực phát triển bền vững. Theo đó, cần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề, định hướng đào tạo theo nhu cầu thị trường, đầu tư vào kỹ năng mềm và kỹ năng số; trang bị cho lao động trẻ kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, tư duy sáng tạo, sử dụng công nghệ số - những yếu tố đang thiếu ở lực lượng lao động Việt Nam.
Cùng với đó, xây dựng chính sách khuyến khích người lao động học tập liên tục, học tập suốt đời, tránh lãng phí dân số vàng khi kỹ năng trở nên lạc hậu; tăng cường đầu tư vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Giải pháp hiệu quả khác là cải thiện môi trường làm việc và chính sách lao động. Sớm giảm giờ làm việc tiêu chuẩn cho khu vực tư từ 48 giờ xuống 44 giờ và tiến tới 40 giờ một tuần như khu vực công…
Cuối cùng, phải tăng cường chính sách dân số và sức khỏe lao động. Đầu tư vào y tế để duy trì sức khỏe lực lượng lao động, đặc biệt là thanh niên - trụ cột của dân số vàng. Kéo dài thời kỳ dân số vàng bằng cách khuyến khích sinh con hợp lý và nâng cao tuổi nghỉ hưu phù hợp.