Định vị giá trị làng nghề trong công nghiệp văn hóa
Trong dòng chảy của toàn cầu hóa và sự bùng nổ của kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hóa đang dần trở thành một trong những nhóm ngành quan trọng, góp phần vào sự thịnh vượng của các quốc gia. Phát triển công nghiệp văn hóa là một trong những phương cách phát triển sức mạnh mềm của văn hóa dân tộc, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới, tạo hiệu ứng tốt để phát triển kinh tế. Trong đó, các làng nghề truyền thống có thể được xem như những 'viên ngọc quý' cần được mài giũa và phát huy hiệu quả.

Làng đan lát Bao La (xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, thành phố Huế) tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều lao động địa phương
Bài 1: Giá trị lớn về văn hóa và kinh tế
Phát triển nghề, làng nghề có ý nghĩa quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa, tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống kinh tế-xã hội của cộng đồng, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam ra với thế giới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, không ít làng nghề có tuổi đời hàng trăm năm đang dần biến mất trong sự tiếc nuối...
Ngày 14/10/2024, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã ký ban hành quyết định thu hồi bằng công nhận làng nghề dệt chiếu An Phước (xã Duy Phước, huyện Duy Xuyên). Thông tin này khiến nhiều người không khỏi xót xa về số phận của một làng nghề có tuổi đời xấp xỉ 500 năm nay phải dừng hoạt động.
Do nhiều nguyên nhân, không ít làng nghề có tuổi đời hàng trăm năm đang dần biến mất trong sự tiếc nuối...
Theo quy định, để được công nhận là làng nghề truyền thống phải đáp ứng tiêu chí có tối thiểu 20% tổng số hộ trên địa bàn tham gia một hoặc các hoạt động ngành nghề nông thôn; sản xuất, kinh doanh ổn định tối thiểu hai năm liên tục tính đến thời điểm đề nghị công nhận. Nhưng từ hơn 5 năm qua tại làng dệt chiếu An Phước, các hoạt động sản xuất gần như đình trệ do không tiêu thụ được sản phẩm, dẫn đến việc nhiều người dân trong làng bỏ nghề. Thực tế, những ngành nghề không còn phù hợp, không có khả năng duy trì và phát triển, sẽ bị sàng lọc, đào thải.
Năm 2004, cùng với làng dệt chiếu An Phước, làng chiếu Bàn Thạch (xã Duy Vinh, huyện Duy Xuyên) cũng được công nhận là làng nghề truyền thống với hơn 350 hộ sản xuất. Song đến nay, làng nghề chỉ còn 35 hộ, và hầu như chỉ còn một số người cao tuổi vẫn còn kiên trì giữ nghề dệt chiếu truyền thống.
Một nghệ nhân cao tuổi của làng không khỏi xót xa khi đưa ra một phép tính: Hai vợ chồng bà làm việc chăm chỉ thì mỗi ngày dệt được 3 tấm chiếu, trừ các chi phí, còn lại 50.000 đồng gọi là tiền công lao động. Một số hộ trong làng mạnh dạn đầu tư máy dệt để cải thiện năng suất song thu nhập cũng chỉ vào khoảng 150.000 đồng/ngày, mức thu nhập này quá thấp cho nên khó bền vững.
Tại Hà Nội, số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ chỗ có 1.350 làng nghề và làng có nghề, đến nay trên địa bàn thành phố chỉ còn 806 làng nghề và làng có nghề còn đang hoạt động, 544 làng đã bị mai một và dần bị xóa sổ.
Mới đây, 29 làng nghề tiếp tục lọt vào danh sách rà soát, đề xuất đưa ra khỏi “Danh sách công nhận danh hiệu làng nghề, làng nghề truyền thống” của thành phố. Trong số đó có thể kể đến làng nghề mây tre, giang đan Yên Trường (xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ) được công nhận làng nghề truyền thống năm 2009, tuy nhiên đến nay hầu hết các hộ sản xuất đều đã chuyển hướng làm ăn khác để phát triển kinh tế.
Tương tự, qua quá trình rà soát tại nhiều làng nghề trên địa bàn tỉnh Hải Dương cho thấy, tỷ lệ các hộ dân giữ nghề truyền thống rất thấp, không đạt so với quy định. Như huyện Thanh Miện có 9 làng nghề nhưng có 2 làng nghề gần như không hoạt động đó là làng nghề thêu tranh, móc sợi An Dương (xã Chi Lăng Nam) và làng nghề ghép trúc, thêu tranh La Ngoại (xã Ngũ Hùng). Hoặc làng nghề mây tre đan ở thôn Chằm, huyện Gia Lộc chỉ có 6,2% số hộ dân còn làm nghề.
Hiện cả nước có 5.400 làng nghề, trong đó 2.000 làng nghề truyền thống, 57 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thuộc loại hình nghề thủ công truyền thống.
Nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái của các làng nghề đến từ nhiều phía.
Trước hết, thị trường ngày càng khắt khe khiến sản phẩm thủ công khó cạnh tranh với hàng hóa công nghiệp giá rẻ, mẫu mã đa dạng.
Thí dụ một chiếc chiếu Định Yên dệt bằng tay, một nhân công phải mất cả ngày mới hoàn thành, giá thành cao, trong khi chiếu nhựa công nghiệp sản xuất hàng loạt, giá rẻ và tiện dụng hơn trong mắt người tiêu dùng.
Thứ hai, nguồn nguyên liệu ngày càng khan hiếm đẩy nhiều làng nghề vào cảnh đã khó lại càng thêm khó. Đơn cử như ngành nghề mây tre đan, đang có khoảng 600 làng nghề trên cả nước phải nhập khẩu nguyên liệu. Bởi với 1,5 triệu héc-ta trồng các loại cói, tre, nứa (theo số liệu thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), tổng trữ lượng cả nước đạt khoảng 9,5 tỷ cây, bình quân khai thác từ 500-600 triệu cây/năm nhưng nhu cầu tiêu thụ lại lên tới 900 triệu đến 1 tỷ cây/năm.
Do đó việc nhập khẩu nguyên liệu là yêu cầu bắt buộc để bảo đảm hoạt động sản xuất không bị gián đoạn. Thứ ba, ô nhiễm môi trường từ phương pháp sản xuất thủ công lạc hậu là một rào cản lớn khác.
Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện có 46% số làng nghề trong diện điều tra bị ô nhiễm nặng về không khí, nước hoặc đất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân. Bên cạnh đó, việc thiếu nguồn nhân lực, thiếu hụt đội ngũ kế cận có trình độ, tâm huyết với nghề, thiếu phương thức quảng bá, tiếp cận thị trường phù hợp,... cũng là nguyên nhân khiến các làng nghề lâm vào cảnh đình trệ.
Mặt khác, đang tồn tại một thực tế đáng lo ngại trong cộng đồng khi xem nhẹ vai trò của các làng nghề truyền thống vì cho rằng các làng nghề đã trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với nhịp sống công nghiệp hóa và số hóa ngày nay.
Sự thiếu kết nối giữa các giá trị truyền thống với đời sống hiện đại, cùng với việc giáo dục và truyền thông chưa thật sự đủ sức khơi dậy niềm tự hào về di sản trong cộng đồng, nhất là giới trẻ. Hệ quả của cách nhìn nhận sai lệch ấy là những ứng xử tiêu cực đối với làng nghề: Từ việc xem nhẹ giá trị của các làng nghề truyền thống, đến sự thờ ơ trong việc bảo tồn bản sắc, hoặc áp đặt các giá trị bên ngoài để phát triển làng nghề theo lối “khai thác hủy diệt”, tận thu, làm phai nhạt bản sắc vốn có.
Sự mai một các làng nghề không chỉ làm mất đi nghề thủ công truyền thống mà còn nguy cơ kéo theo sự đứt gãy văn hóa nghề, làm tan rã cộng đồng nghề vốn gắn bó qua nhiều thế hệ. Chưa kể dòng chảy lao động bị tác động sau khi các làng nghề tan rã cũng tiềm ẩn những vấn đề bất ổn về an ninh trật tự xã hội.
Tại làng An Phước, khi nghề dệt chiếu lụi tàn, người dân lên thành phố mưu sinh, để lại những ngôi nhà vắng lặng và những con đường làng phủ đầy cỏ dại. Ở làng Đa Phước (An Giang), những bí quyết của nghề dệt thổ cẩm, vốn là sợi dây kết nối giữa các thế hệ nhưng giờ chỉ còn được lưu lại trong ký ức của những người cao tuổi, để lại khoảng trống không thể lấp đầy trong đời sống tinh thần của cộng đồng.
Nhà dân tộc học Nguyễn Đức Từ Chi từng phân tích rằng, làng là tế bào sống của xã hội Việt Nam, không chỉ là đơn vị hành chính mà còn là trung tâm kinh tế, văn hóa, định hình bản sắc nông thôn Việt. Khi làng nghề không còn nữa, cả một hệ sinh thái cộng đồng bị xáo trộn. Nếu như giai đoạn trước, từng nhịp sống nơi đây đều xoay quanh nghề truyền thống, nay nghề rơi vào cảnh khó khăn, kinh tế địa phương bị ảnh hưởng, bao gồm cả sinh kế phụ trợ, tác động đến sự bền vững của cấu trúc xã hội.
Hiện cả nước có 5.400 làng nghề, trong đó 2.000 làng nghề truyền thống, 57 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thuộc loại hình nghề thủ công truyền thống. Các làng nghề đang tạo việc làm cho khoảng 11 triệu lao động tại chỗ, chiếm khoảng 30% lực lượng lao động ở nông thôn và miền núi.
Sản phẩm từ các làng nghề đã xuất khẩu đến hơn 160 quốc gia, mang về kim ngạch hơn 2 tỷ USD mỗi năm. Nhiều làng nghề truyền thống tiếp tục phát huy giá trị, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế. Giá trị kinh tế và văn hóa của các làng nghề là không thể phủ nhận.
Từ đây đặt ra những yêu cầu có tính cấp bách trong việc bảo tồn, tìm cách tháo gỡ khó khăn và tạo sinh khí mới cho những di sản làng nghề để tiếp tục đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Tất nhiên, không phải mọi làng nghề đều có thể được giữ lại trong bối cảnh xã hội hiện đại không ngừng thay đổi, nhu cầu của cộng đồng ngày càng đa dạng với đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn. Chúng ta cần một quá trình đánh giá và sàng lọc kỹ lưỡng để tập trung nguồn lực vào những làng nghề có triển vọng phát triển, thích ứng với thị trường và vẫn lưu giữ được những giá trị độc đáo, đặc sắc cần được bảo tồn, trong khi những làng nghề không còn đáp ứng nhu cầu thực tiễn có thể dần bị thay thế. Việc sàng lọc này không chỉ giúp cho việc đầu tư không bị dàn trải, hình thức và kém hiệu quả, mà còn bảo đảm các chính sách hỗ trợ được tập trung đúng chỗ, mang lại giá trị bền vững về cả văn hóa và kinh tế.
(Còn nữa)