Đình cổ từ thời khẩn hoang ở Cần Thơ

Đình Bình Thủy (hay còn gọi Long Tuyền Cổ Miếu) xây dựng năm 1844, được tu bổ và hoàn thiện có diện mạo như ngày nay vào năm 1909 dưới thời vua Tự Đức. Đình tọa lạc tại phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ, đến nay đã trải qua trên 180 năm, ngôi đình là chứng tích về đời sống văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng của người dân từ thời khẩn hoang.

Ngôi đình cổ trên 180 năm tại quận Bình Thủy, TP Cần Thơ.

Đình Bình Thủy được dựng vào năm 1844, khi đó bằng tranh tre. Tới thời vua Tự Đức được tu bổ, nâng cấp thành kiên cố với kiến trúc như ngày nay. Đình nổi bật với kiến trúc Nam Bộ, xây theo hình chữ nhất (-), mặt hướng phía Đông, nhìn ra rạch Bình Thủy. Ảnh: Hòa Hội.

Đình Bình Thủy được dựng vào năm 1844, khi đó bằng tranh tre. Tới thời vua Tự Đức được tu bổ, nâng cấp thành kiên cố với kiến trúc như ngày nay. Đình nổi bật với kiến trúc Nam Bộ, xây theo hình chữ nhất (-), mặt hướng phía Đông, nhìn ra rạch Bình Thủy. Ảnh: Hòa Hội.

Năm 1989, Bộ Văn hóa Thông tin quyết định công nhận Đình Bình Thủy là công trình kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Đây cũng là một trong những ngôi đình xưa, to, đẹp nhất vùng Nam Bộ còn nguyên vẹn, thu hút nhiều khách tham quan. Ảnh: Hòa Hội.

Năm 1989, Bộ Văn hóa Thông tin quyết định công nhận Đình Bình Thủy là công trình kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Đây cũng là một trong những ngôi đình xưa, to, đẹp nhất vùng Nam Bộ còn nguyên vẹn, thu hút nhiều khách tham quan. Ảnh: Hòa Hội.

Giang chánh điện, bố trí nhiều bức hoành phi, liễn đối, bao lam chạm khắc tinh xảo, giá trị mỹ thuật, nghệ thuật thư pháp càng tôn lên dáng vẻ thâm nghiêm, như bức hoành phi “Quốc thái dân an”. Ảnh: Hòa Hội.

Giang chánh điện, bố trí nhiều bức hoành phi, liễn đối, bao lam chạm khắc tinh xảo, giá trị mỹ thuật, nghệ thuật thư pháp càng tôn lên dáng vẻ thâm nghiêm, như bức hoành phi “Quốc thái dân an”. Ảnh: Hòa Hội.

Người dân chiêm bái, cầu nguyện tại đình. Ảnh: Hòa Hội.

Người dân chiêm bái, cầu nguyện tại đình. Ảnh: Hòa Hội.

Năm 1852, vua Tự Đức sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng cho đình Bình Thủy. Từ đó, nhân dân góp công, của cất sửa lại mái đình, lợp ngói khang trang hơn. Tháng 7/1909, đình được trùng tu lần 3 trên nền đình cũ, với khuôn viên 4.000 m2, hoàn thành sau một năm và được giữ gần như nguyên trạng tới ngày nay. Ảnh: Hòa Hội.

Năm 1852, vua Tự Đức sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng cho đình Bình Thủy. Từ đó, nhân dân góp công, của cất sửa lại mái đình, lợp ngói khang trang hơn. Tháng 7/1909, đình được trùng tu lần 3 trên nền đình cũ, với khuôn viên 4.000 m2, hoàn thành sau một năm và được giữ gần như nguyên trạng tới ngày nay. Ảnh: Hòa Hội.

Ban thờ Bốn cảnh thành hoàng. Ảnh: Hòa Hội.

Ban thờ Bốn cảnh thành hoàng. Ảnh: Hòa Hội.

Soạn giả Nhâm Hùng - Nhà nghiên cứu Văn hóa Nam Bộ - cho biết năm giáp thìn 1844, vùng Bình Thủy gặp trận lụt lớn, nhà cửa ruộng vườn tan hoang. Khi nước rút, bà con trở về đã góp công, góp của dựng ngôi đình bên dòng rạch Bình Thủy với cầu mong cuộc sống bình yên, mưa thuận gió hòa. Ảnh: Hòa Hội.

Soạn giả Nhâm Hùng - Nhà nghiên cứu Văn hóa Nam Bộ - cho biết năm giáp thìn 1844, vùng Bình Thủy gặp trận lụt lớn, nhà cửa ruộng vườn tan hoang. Khi nước rút, bà con trở về đã góp công, góp của dựng ngôi đình bên dòng rạch Bình Thủy với cầu mong cuộc sống bình yên, mưa thuận gió hòa. Ảnh: Hòa Hội.

Tiền đình và chính điện hình vuông, mỗi chiều có 6 hàng cột vững chắc. Trên các cột này, các họa tiết điển hình như hình rồng, hình hoa mẫu đơn được chạm trổ tỉ mỉ, tinh xảo. Ảnh: Hòa Hội.

Tiền đình và chính điện hình vuông, mỗi chiều có 6 hàng cột vững chắc. Trên các cột này, các họa tiết điển hình như hình rồng, hình hoa mẫu đơn được chạm trổ tỉ mỉ, tinh xảo. Ảnh: Hòa Hội.

Đình còn giữ được những mảng chạm, những họa tiết trang trí gần gũi với nghệ thuật dân tộc. Ảnh: Hòa Hội.

Đình còn giữ được những mảng chạm, những họa tiết trang trí gần gũi với nghệ thuật dân tộc. Ảnh: Hòa Hội.

Phần mái đình lợp ngói, được nâng đỡ bởi sáu hàng cột tròn to, bằng gỗ quý. Các bộ phận vi kèo, kết cấu theo lối “thượng lầu, hạ hiên”. Ảnh: Hòa Hội.

Phần mái đình lợp ngói, được nâng đỡ bởi sáu hàng cột tròn to, bằng gỗ quý. Các bộ phận vi kèo, kết cấu theo lối “thượng lầu, hạ hiên”. Ảnh: Hòa Hội.

Trên nóc đình gắn tượng rồng “lưỡng long tranh châu” và các tượng thần tiên, chim, thú, cỏ hoa trên các nóc đường viền mái. Ảnh: Hòa Hội.

Trên nóc đình gắn tượng rồng “lưỡng long tranh châu” và các tượng thần tiên, chim, thú, cỏ hoa trên các nóc đường viền mái. Ảnh: Hòa Hội.

Bên cạnh đình có xây một dãy nhà, gọi là gian lục ấp để mỗi khi cúng đình, đại diện 6 ấp mang vật ra chuẩn bị dâng cúng thần. Ảnh: Hòa Hội.

Bên cạnh đình có xây một dãy nhà, gọi là gian lục ấp để mỗi khi cúng đình, đại diện 6 ấp mang vật ra chuẩn bị dâng cúng thần. Ảnh: Hòa Hội.

Sau đình có miếu thờ Thần Nông. Ảnh: Hòa Hội.

Sau đình có miếu thờ Thần Nông. Ảnh: Hòa Hội.

Theo sử sách, đến đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1908), làng Bình Thủy được đổi tên thành làng Long Tuyền (do rạch Bình Thủy có hình tựa con rồng nằm), nên người dân nơi đây còn gọi là đình thần Long Tuyền hay Long Tuyền Cổ Miếu. Ảnh: Hòa Hội.

Theo sử sách, đến đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1908), làng Bình Thủy được đổi tên thành làng Long Tuyền (do rạch Bình Thủy có hình tựa con rồng nằm), nên người dân nơi đây còn gọi là đình thần Long Tuyền hay Long Tuyền Cổ Miếu. Ảnh: Hòa Hội.

Hòa Hội

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/dinh-co-tu-thoi-khan-hoang-o-can-tho-post1726592.tpo
Zalo