Điểm mặt các loại bệnh mạn tính đang 'giết người hàng loạt'
Bệnh tim mạch, ung thư, hô hấp mạn tính và đái tháo đường hiện đang là bốn 'sát thủ thầm lặng' gây ra hơn 80% ca tử vong trên toàn cầu. Việt Nam không nằm ngoài vòng xoáy này, khi các bệnh mạn tính đã trở thành nguyên nhân tử vong hàng đầu, tạo ra gánh nặng khổng lồ về sức khỏe và tài chính.
Bệnh mạn tính, gánh nặng sức khỏe toàn cầu
Nội dung trên được GS.TS.BS Nguyễn Trung Kiên – Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Cần Thơ cho biết trong Hội nghị Khoa học Quốc tế lần thứ hai năm 2025, do Bệnh viện Lê Văn Thịnh tổ chức tại Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng (ngày 25/10). Ông nhận định:“Kiểm soát bệnh mạn tính đang là một trong những thách thức lớn nhất của y học hiện đại”.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bốn nhóm bệnh mạn tính chính gồm bệnh tim mạch, ung thư, bệnh hô hấp và đái tháo đường đang chiếm tới 80% tổng số ca tử vong do bệnh không lây nhiễm trên toàn cầu. Riêng bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, kế đến là ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và đái tháo đường.
WHO thống kê, có đến 75% số ca tử vong do bệnh mạn tính xảy ra tại các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp – trong đó có Việt Nam. Từ năm 2021 đến 2025, chi phí y tế toàn cầu để ứng phó với nhóm bệnh này ước tính lên đến 7.000 tỷ USD.

Bệnh nhân mắc ung thư điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy
“Các bệnh mạn tính không chỉ tước đi hàng triệu sinh mạng, mà còn khiến hàng trăm triệu người phải sống trong cảnh suy giảm chất lượng cuộc sống, lệ thuộc thuốc men, tốn kém chi phí điều trị, tạo thành gánh nặng với gia đình và xã hội” - GS Kiên nhấn mạnh.
Theo Bộ Y tế, mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 592.000 ca tử vong, trong đó 81,4% là do các bệnh mạn tính. Riêng nhóm bệnh tim mạch, thận và rối loạn chuyển hóa chiếm đến hơn một nửa số ca tử vong. Tỷ lệ mắc các bệnh mạn tính trong cộng đồng đang không ngừng tăng. Khoảng 20% người trưởng thành Việt Nam bị tăng huyết áp, 7% mắc đái tháo đường và 15% có rối loạn mỡ máu. Các yếu tố nguy cơ phổ biến như hút thuốc lá, ăn mặn, ít vận động, uống rượu bia, béo phì… đang khiến tình trạng bệnh diễn biến phức tạp và trẻ hóa.
“Các yếu tố nguy cơ này tạo nên chuỗi phản ứng – từ stress oxy hóa, rối loạn chức năng nội mô, hình thành huyết khối, tổn thương cơ quan đích – và cuối cùng là tử vong” - GS Kiên phân tích. Về kinh tế, ông cho biết, chi phí điều trị bệnh mạn tính tại Việt Nam ngày càng tăng mạnh. Một bệnh nhân đái tháo đường hoặc tim mạch có thể tốn trung bình 19,5 USD/tháng cho chi phí y tế, chưa kể viện phí và chăm sóc cấp cứu tăng gấp 5 lần so với người khỏe mạnh. Riêng điều trị bệnh thận mạn giai đoạn cuối có thể tiêu tốn hơn 9.000 USD/năm cho mỗi bệnh nhân.
Chìa khóa để kiểm soát bệnh mạn tính
Theo GS.TS.BS Nguyễn Trung Kiên, muốn giảm gánh nặng bệnh mạn tính, không thể chỉ dừng ở điều trị mà cần đặt trọng tâm vào quản lý ca bệnh và nghiên cứu khoa học. “Y học hiện đại đã chuyển từ giai đoạn thực nghiệm sang y học dựa trên bằng chứng. Mọi quyết định điều trị phải dựa vào dữ liệu và nghiên cứu khoa học. Các công trình nghiên cứu sẽ giúp xác định cơ chế bệnh sinh, phát hiện sớm và dự phòng bệnh mạn tính. Nhiều đề tài hiện nay đang tập trung vào phân tích gen, chỉ điểm sinh học và các yếu tố nguy cơ nhằm hướng đến y học cá thể hóa – điều trị phù hợp với từng người bệnh” – GS Kiên nói.

Bệnh mạn tính đang trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho cộng đồng
Bên cạnh đó, các nghiên cứu cộng đồng đang phát huy hiệu quả rõ rệt. Chẳng hạn, mô hình tầm soát bệnh thận mạn tại Long An đã phát hiện hàng trăm ca bệnh ở giai đoạn sớm, giúp can thiệp kịp thời và giảm chi phí điều trị. Tại TP.HCM, nghiên cứu về tăng huyết áp và đái tháo đường cộng đồng cũng đang được triển khai để xây dựng cơ sở dữ liệu y tế quốc gia.
Các công trình dược học lâm sàng gần đây còn giúp mở ra hướng điều trị mới cho các bệnh mạn tính. “Đây là minh chứng cho vai trò của nghiên cứu khoa học trong việc tạo ra bằng chứng điều trị chính xác, hiệu quả và tiết kiệm chi phí cho xã hội” - GS Kiên nhấn mạnh.
Theo các chuyên gia, bệnh mạn tính là nhóm bệnh tiến triển chậm, kéo dài nhiều năm, thường không thể chữa khỏi hoàn toàn. Dự phòng và phát hiện sớm vẫn là biện pháp hiệu quả nhất để giảm gánh nặng bệnh tật.



























