Di chúc chỉ lập vi bằng có giá trị đến đâu?

Việc lập di chúc và chỉ đề nghị thừa phát lại lập vi bằng sẽ có giá trị như thế nào là thắc mắc của nhiều bạn đọc.

Gửi câu hỏi tới chuyên mục "Chat với chuyên gia" do báo Pháp Luật TP.HCM phối hợp cùng Trường ĐH Luật TP.HCM tổ chức, bạn đọc Hồng Nhung (TP.HCM) hỏi:

Dạo gần đây, các tranh chấp về thừa kế xảy ra nhiều, bản thân gia đình tôi cũng đang có sự vụ liên quan nên hơi lo lắng. Hôm trước, qua theo dõi báo đài vụ chia thừa kế của cố NSƯT Vũ Linh tôi thấy tòa có tuyên di chúc miệng vô hiệu. Trong trường hợp của gia đình tôi, các cháu có gợi ý là để ông bà lập di chúc rồi nhờ lập vi bằng cho nhanh gọn. Xin hỏi chúng tôi làm như vậy di chúc có hiệu lực không?

Giải đáp vấn đề bạn đọc nêu, ThS Đặng Thái Bình, Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường ĐH Luật TP.HCM, cho biết:

Di chúc là loại giao dịch dân sự mang tính trọng thức. Xuất phát từ việc di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương và mang tính cá nhân tuyệt đối, và di chúc chỉ có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế, tức sau khi người đó đã chết, vì vậy họ không thể phát biểu ý chí cũng như xác nhận được giá trị của di chúc. Do đó, để loại trừ khả năng di chúc bị giả mạo hoặc được lập ra do người người lập di chúc bị đe dọa, cưỡng ép, lừa dối để hưởng thừa kế thì pháp luật Việt Nam hiện nay rất chú trọng đến hình thức và thủ tục lập di chúc.

Ngoài ra, đối với việc di chúc vi phạm quy định về hình thức chỉ có một hướng xử lý là di chúc vô hiệu, vì so với các loại giao dịch khác thì chúng ta không thể tiến hành việc khắc phục, bổ sung hình thức hay xác định được ý chí của các bên trong giao dịch như quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015.

Liên quan đến điều kiện có hiệu lực của di chúc, ngoài các điều kiện mang tính bắt buộc chung được quy định tại Điều 630 BLDS năm 2015 như người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt trong lúc lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội… thì để di chúc được xem là hợp pháp thì phải tuân theo những quy định chặt chẽ về mặt hình thức.

Có thể phân chia hình thức của di chúc trong BLDS năm 2015 thành 2 loại chính là di chúc miệng và di chúc bằng văn bản, đối với di chúc bằng văn bản thì chúng ta có thể chia tiếp thành 4 loại là di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (viết tay), di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc có công chứng hoặc chứng thực.

Đối với hình thức của di chúc là bằng văn bản không cần người làm chứng (di chúc viết tay), theo Điều 633 BLDS năm 2015 thì pháp luật chỉ yêu cầu hai điều kiện là người lập di chúc phải tự viết, tự ký và quy định chung về nội dung di chúc (Điều 631 BLDS năm 2015).

Đối với di chúc có yêu cầu cần người làm chứng như di chúc của người nhờ người khác viết hộ do không tự viết được (Điều 634) thì điều kiện đặt ra là phải có ít nhất 2 người làm chứng hợp pháp (Điều 632); người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt những người làm chứng và những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký xác nhận.

Đối với trường hợp pháp luật yêu cầu di chúc phải có công chứng, chứng thực thì khoản 2 Điều 36 Nghị định 08/2020/NĐ-CP có ghi nhận rất rõ rằng: “ Vi bằng không thể thay thế văn bản công chứng, văn bản chứng thực, văn bản hành chính khác”.

Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 37 Nghị định này cũng khẳng định một trong các trường hợp không được lập vi bằng là “xác nhận nội dung, ký tên trong hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định thuộc phạm vi hoạt động công chứng, chứng thực…”.

"Như vậy, có thể thấy rằng vi bằng không thể thay thế hoạt động công chứng, chứng thực, nội dung này là hợp lý vì việc lập vi bằng chỉ có giá trị là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét giải quyết vụ việc và là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các bên. Bản thân vi bằng không có giá trị pháp lý như một văn bản công chứng, chứng thực vì một trong những vai trò quan trọng nhất của việc công chứng, chứng thực là xác định tính chính xác, hợp pháp của giao dịch. Do đó, trên thực tế việc lập vi bằng cho những giao dịch được quy định phải tuân thủ hình thức có giá trị làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp về sau.

Có thể thấy rằng nếu trong trường hợp có quy định về yêu cầu công chứng, chứng thực di chúc như di chúc của người không biết chữ (khoản 3 Điều 630) thì việc lập vi bằng sẽ không đủ để chứng minh đây là di chúc hợp pháp", ThS Bình cho biết.

Cũng theo ông, vi bằng không phải là một yêu cầu bắt buộc đối với việc lập di chúc theo quy định của BLDS năm 2015. Tùy thuộc nhu cầu của người lập di chúc trong từng hoàn cảnh cụ thể mà người lập di chúc có thể lựa chọn lập vi bằng nhằm giúp củng cố hơn tính xác thực về mặt chủ thể hay quá trình lập di chúc…

Tuy vậy, quá trình này không thể thay thế các yêu cầu bắt buộc mà pháp luật đặt ra đối với từng hình thức. Cũng cần lưu ý rằng đối với trường hợp di chúc có yêu cầu về người làm chứng, người lập vi bằng có thể trở thành người làm chứng (nếu không vi phạm các trường hợp tại Điều 632 BLDS năm 2015) và khi đủ số lượng người làm chứng mà pháp luật yêu cầu (từ 02 người làm chứng hợp pháp trở lên) thì trường hợp này cũng được xem là di chúc đã được đảm bảo về mặt hình thức.

Vi bằng và giá trị của vi bằng

Vi bằng và việc lập vi bằng là những hoạt động gắn liền với Thừa phát lại – người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án dân sự, tổ chức thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định 08/2020/NĐ-CP thì vi bằng là “văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của Nghị định này”.

Về giá trị pháp lý của vi bằng thì theo khoản 3 Điều 36 Nghị định trên, vi bằng là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính theo quy định của pháp luật; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.

NGUYỄN QUÝ

Nguồn PLO: https://plo.vn/di-chuc-chi-lap-vi-bang-co-gia-tri-den-dau-post838715.html
Zalo