Đề xuất 9 chính sách đặc thù, đặc biệt làm cao tốc Quy Nhơn - Pleiku
Thẩm tra báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đồng tình với việc cần phải áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để bảo đảm tiến độ, hiệu quả.
Ngày 19/5, Quốc hội nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra về chủ trương đầu tư dự án xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn – Pleiku.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh trình bày báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn – Pleiku.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh trình bày báo cáo tiền khả thi. Ảnh: Media Quốc hội.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Minh, đây là dự án quan trọng quốc gia nhằm mục tiêu hình thành trục ngang Đông - Tây kết nối vùng Tây Nguyên với Duyên hải Nam Trung Bộ, kết nối hệ thống trục dọc (đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, cao tốc Bắc - Nam phía Tây, đường Hồ Chí Minh, đường Trường Sơn Đông, quốc lộ 1, đường bộ ven biển).
Qua đó, phát huy hiệu quả các dự án đã và đang đầu tư, đáp ứng nhu cầu vận tải; tạo dư địa, động lực phát triển không gian vùng; kết nối các trung tâm kinh tế, cảng biển; nâng cao năng lực cạnh tranh…
Dự án có quy mô đầu tư 4 làn xe, có làn dừng khẩn cấp liên tục, vận tốc thiết kế là 100km/h.

Quang cảnh hội trường. Ảnh: Quang Vinh.
Hướng tuyến được nghiên cứu lựa chọn bảo đảm ngắn nhất, thẳng nhất có thể, hạn chế đi qua các khu vực nhạy cảm về môi trường tự nhiên, xã hội, đất quốc phòng; hạn chế khối lượng giải phóng mặt bằng, bảo đảm kết nối thuận lợi với các trung tâm đô thị, khu chức năng quan trọng.
Dự án được đề xuất thực hiện theo hình thức đầu tư công với sơ bộ tổng mức đầu tư hơn 43.700 tỷ đồng, chia thành 2 dự án thành phần bao gồm dự án thành phần 1 đoạn qua tỉnh Bình Định và dự án thành phần 2 đoạn qua tỉnh Gia Lai.
Nếu được phê duyệt, dự kiến dự án sẽ được khởi công vào cuối tháng 12/2025 và hoàn thành đưa vào khai thác vào năm 2029.
Để đẩy nhanh tiến độ và phân cấp, phân quyền đầu tư, Chính phủ đề xuất 9 nhóm cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Trong đó, có 3 chính sách đã được áp dụng cho dự án đầu tư cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, 5 chính sách đã được áp dụng cho dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và một chính sách đã được áp dụng cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Minh, hệ thống giao thông kết nối khu vực tỉnh Gia Lai và Kon Tum với Bình Định và các tỉnh vùng duyên hải Nam Trung Bộ chủ yếu bằng tuyến đường bộ, thông qua các tuyến quốc lộ 19, 24 và 25.
Trong khi đó, vận tải đường thủy không có điều kiện phát triển; vận tải đường sắt không hiệu quả do chênh lệch địa hình, chi phí đầu tư rất cao; vận tải hàng không chủ yếu phục vụ vận tải hành khách cự ly dài tới khu vực phía Bắc và phía Nam.
Vì vậy, việc xây dựng tuyến cao tốc Quy Nhơn - Pleiku là cần thiết, nhằm phát huy tốt lợi thế phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến, năng lượng tái tạo và du lịch của khu vực tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Đồng thời, đáp ứng nhu cầu vận tải trên trục Đông - Tây và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: Media Quốc hội.
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi đánh giá hồ sơ dự án cơ bản đáp ứng yêu cầu.
Góp ý một số nội dung cụ thể, về đề xuất phân chia dự án thành hai dự án thành phần, theo địa giới hành chính của tỉnh Bình Định và tỉnh Gia Lai, cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ nghiên cứu phương án phân chia dự án thành phần phù hợp với chủ trương sáp nhập tỉnh, năng lực quản lý của địa phương, yêu cầu kỹ thuật nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, hiệu quả.
Bởi theo chủ trương sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, dự kiến tỉnh Bình Định và tỉnh Gia Lai sẽ sáp nhập thành tỉnh Gia Lai.
Về các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để triển khai đầu tư dự án, cơ quan thẩm tra đồng tình với việc cần phải áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để bảo đảm tiến độ, hiệu quả.
Tuy nhiên, Ủy ban này cho rằng một số chính sách đã được điều chỉnh so với các chính sách tương tự được áp dụng cho một số dự án thời gian qua. Do đó, đề nghị thuyết minh làm rõ hơn việc điều chỉnh một số chính sách này.
Đồng thời, Ủy ban đề nghị Chính phủ cần tiếp tục rà soát kỹ lưỡng các cơ chế, chính sách áp dụng, bảo đảm cơ chế chính sách này khả thi, phù hợp đối với tính chất, mục tiêu của dự án.
Theo tờ trình của Chính phủ, các chính sách đặc thù gồm: Chính sách về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thẩm định và quyết định đầu tư các dự án thành phần; Về thẩm quyền quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư; Về chỉ định thầu; Thẩm định khả năng cân đối vốn cho Dự án; Về triển khai đồng thời lập, thẩm định, phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; Về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ Dự án; Về bãi đổ chất thải rắn xây dựng và tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước; Về kế hoạch vốn bố trí cho Dự án.