Dấu xưa ở làng chài bãi ngang
Tại bãi ngang xã Tam Thanh, vào mỗi buổi chiều, ngư dân lại tập trung ra thuyền vá lưới để chuẩn bị cho phiên biển vào sáng sớm ngày mai.

Một chiếc thuyền trên bờ biển làng chài Tam Thanh được soi đèn để kéo ra biển. Ảnh: VĂN CHƯƠNG
Từ năm 1930, nhà khảo cứu người Pháp Píetri đã kỳ công phác họa các loại thuyền của Việt Nam và xuất bản thành sách. Gần một thế kỷ sau, nơi làng chài Tam Thanh (TP Tam Kỳ, Quảng Nam), vẫn còn những chiếc ghe mang dáng dấp như bước ra từ tranh vẽ của Píetri.
Làng chài ấy giờ đây còn được biết đến là “làng bích họa”, nơi những ngôi nhà cũ kỹ của ngư dân khoác lên mình tấm áo nghệ thuật. Ít ai ngờ, chính cái giản dị, mộc mạc lại góp phần gìn giữ một di sản ký ức giàu giá trị văn hóa và cộng đồng.
Thuyền có vành bằng tre, bụng là mê nan, mũi cong nhọn rất giống với những loại thuyền cổ; ra biển về thì kéo lên bãi cát, đến lúc đi thì hò nhau, cả chục người xúm lại đẩy xuống biển. Gần 100 năm về trước, ông Píetri, Giám đốc nha Ngư nghiệp Đông Dương đi dọc bờ biển Việt Nam và đã vẽ lại những chiếc thuyền có hình dáng tương tự...
Dáng ghe cổ
Năm 1930, một quan chức ngành Hàng hải của Pháp là Píetri đã phát hành cuốn sách Thuyền buồm Đông Dương (Voiliers d’Indochine). Vì có những năm tháng dài đi dọc miền biển Việt Nam nên ông đã mô tả khá tỉ mỉ bằng tranh vẽ về các loại thuyền vùng Duyên hải Việt Nam.
Ghe bầu và ghe trường ở Quảng Nam, theo ông ghi chép, được đóng bằng gỗ kiền kiền, chò chỉ, mù u, vắp, huỳnh, bằng lăng... Gỗ chò chỉ dùng làm be phía dưới gần long cốt, be phía trên là gỗ kiền kiền. Gỗ vắp dùng làm chốt, gỗ huỳnh làm bánh lái, chèo làm bằng gỗ bằng lăng.
Ở vùng bãi ngang, ngư dân chỉ đóng các loại thuyền nhỏ để giảm chi phí chuyến biển và cũng tiện cho việc kéo thuyền lên bờ. Cũng vì vậy mà các loại thuyền vẫn giữ được đường nét cổ xưa.
Cuộc sống của ngư dân vùng bãi ngang diễn ra chậm rãi, không ồn ào, vì vậy những lão ngư dân thường lưu giữ được nhiều phong tục mang màu sắc ký ức trong quá khứ. Cứ buổi chiều ra bãi đan lưới gai, đàn bà, đàn ông ở làng chài Tam Thanh lại râm ran đọc bài “Vè ngược” có nội dung rất vui: “Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè lộn ngược/ Voi đi dưới nước, thuyền rượt trên bờ/ Lên núi đặt lờ, xuống sông bửa củi…/ Ghe lớn thì chống, ghe nhỏ thì chèo…”.

Ảnh ghe bầu trong cuốn sách “Thuyền buồm Đông Dương” của Píetri. Ảnh: Tư liệu
Thời cá ùn
Cụ Nguyễn Thị Nhuế (88 tuổi) kể, thời trước làng chài này toàn là nhà tranh. Vì không kiên cố nên mọi người làm nhà lẫn trong cánh rừng dứa dại cao quá đầu người, từ nhà này sang nhà kia là những lối mòn bằng cát. Cứ tới ngày cuối mùa thì cả làng nghe đậm mùi hong lưới. Thời đó chưa có cước nên phải đi hái lá gai hoặc lá thơm núi về ngâm dưới sông cho rã, sau đó gột sạch, tước và se thành sợi, đan vào những con cuối, sau đó dệt thành lưới.
Ngày nay, ngư dân ở làng chài Tam Thanh vẫn đi trên những chiếc thuyền mang dáng dấp cổ xưa, chỉ khác là đã được gắn máy thủy, khi ra biển thì sử dụng điện từ bình ắc quy, không còn mang theo đuốc sậy. Những ngôi nhà được xây dựng từ thập niên 70, 80 vẫn đứng đó, “trơ gan cùng tuế nguyệt”, nên ngôi làng này trở thành di sản ký ức.
Nhìn làng chài, tôi tiếc nuối với những nơi từng như Tam Thanh, trong đó có làng cổ Hoàng Mai ở Thủ đô Hà Nội. Hoàng Mai xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính, trong những tấm ảnh đầy hoài cổ, nhưng giờ đều đã lên phố...
Trước năm 1975, sản lượng cá ở Tam Thanh dày tới mức chỉ cần đốt đuốc lên là cá sôi ào ào. Đầu năm thì cá cơm, cá trích, giữa năm thì cá thu, cá ngừ. Mỗi lần đi biển, bà vợ sẽ dậy sớm nấu cơm thật khô, cùng một nồi nước chè, cứ 4 giờ sáng là đẩy ghe ra, mỗi ghe đi 7 người, bạn chài được gọi là lính thợ.
Lão ngư dân Nguyễn Trung kể, thời trước, chỉ chèo ghe ra khoảng 1-2 hải lý là cá kéo lên đã đầy khoang. Còn hiện nay, dù sản lượng cá tụt giảm rất nhiều, nhưng đời sống ở làng chài Tam Thanh vẫn dập dìu, no đủ, tuy không giàu. Ngư dân có thể thu về được từ 500-700 ngàn đồng/ngày.
Ngược dòng lịch sử, vào tháng 6 năm Tân Mão 1471, năm Hồng Đức thứ hai, vua Lê Thánh Tông thành lập đơn vị hành chính mới là đạo Thừa Tuyên Quảng Nam, diện tích đơn vị hành chính này kéo dài từ bờ Nam sông Thu Bồn đến phía Bắc đèo Cù Mông (tỉnh Bình Định ngày nay), gồm 3 phủ, 9 huyện.
Người Việt theo đó tiến vào vùng đất mới này khai hoang, lập ấp và thường tập trung ở nơi có cửa biển để tiện neo đậu tàu thuyền, hoặc hình thành làng chài ở bãi ngang, là nơi có rạn san hô rất phong phú, có cá quanh năm. Xã Tam Thanh là một trong những địa phương vùng bãi ngang được hình thành từ đó.
Hơn 550 năm người Việt có mặt tại vùng đất gắn với địa danh đạo Thừa Tuyên Quảng Nam, cuộc sống yên bình ở các làng chài bãi ngang này cũng trải qua những biến cố và được các lão ngư dân truyền miệng lại mãi cho đến bây giờ. Ở làng chài Tam Thanh, trước năm 1954, cuộc sống của ngư dân bị xáo trộn, bởi cứ ra biển là bị tàu tuần tiễu của Pháp từ đảo Lý Sơn áp vô bắt người. Vì vậy, người dân đã đặt bài vè: “Tai nghe tiếng sóng rì rì/ Đề phòng tàu thủy có khi tới nhằm…”.
Mưu sinh du lịch
Từ sau năm 1975 tới nay, cuộc sống ở làng chài bãi ngang đã yên bình trở lại. Giữa làng là đồn Biên phòng Tam Thanh và Bộ đội biên phòng Quảng Nam. Mỗi khi có thông tin bão lớn vào miền Trung, lính Biên phòng lại xuống hỗ trợ cho người dân.
“Khắc tinh” của tất cả các làng chài bãi ngang là tàu làm nghề giã cào, thỉnh thoảng lại lén đi sai tuyến, sáp vào vùng biển gần làng chài, giàn lưới kéo bừa dưới rạn san hô xinh đẹp để tận diệt cá tôm. Đó là lúc người dân xao xác và luôn điện thoại báo cáo để Bộ đội biên phòng ngăn chặn, xử lý.
Năm 2016, “làng bích họa” Tam Thanh ra đời. Những ngôi nhà đơn sơ, mộc mạc không ngờ lại trở thành điểm check-in yêu thích của du khách trong và ngoài nước. Làng chài vắng vẻ nằm giữa một bên là biển, một bên là sông Trường Giang đã hiện lên trên bản đồ du lịch. Đông đảo du khách đã đến với những ngôi nhà có vẽ tranh bích họa và thích thú ngắm nhìn những chiếc thuyền như bước ra từ truyện cổ xưa.
Thập niên 40-50, người Việt Nam luôn sử dụng câu vè như một cách truyền thông về câu chuyện thời sự trong cộng đồng. Thế hệ ngư dân thuộc hò vè trong làng cũng ra đi dần dần theo năm tháng. Giờ chỉ còn ít người thuộc các bài vè, trong đó có bài Vè tên cá dài hơn 200 câu: “Tối ngủ hay rờ/ Là con cá ngứa/ Ăn ngày hai bữa/ Là con cá cơm/ Ăn chẳng kịp đơm/ Là con cá hốc…”.