Đầu tư hạ tầng năng lượng: không thể xem nhẹ
'Đầu tư hạ tầng năng lượng cần được ứng xử như đầu tư hạ tầng giao thông' - đây là quan điểm được các chuyên gia đưa ra tại Diễn đàn khoa học với chủ đề: 'Đầu tư phát triển năng lượng hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững' do Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới vừa phối hợp Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật và các đơn vị liên quan đã tổ chức.

Cần những thay đổi mạnh mẽ về cơ chế, chính sách
Sự kiện thu hút sự tham dự của hơn 300 khách mời là các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và đại biểu đến từ nhiều cơ quan nghiên cứu, trường đại học, cơ quan Đảng, Quốc hội và các bộ, ngành T.Ư. Là một hoạt động khoa học thường niên quan trọng, Diễn đàn hướng đến việc đề xuất những giải pháp mang tính đột phá, tháo gỡ các điểm nghẽn và rào cản trong huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển năng lượng. Đây sẽ là cơ sở để tạo lập nền tảng cho mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững trong giai đoạn 2026 - 2030, đồng thời định hướng đến năm 2045.
Ban Tổ chức đã nhận được hơn 35 bài tham luận từ các nhà khoa học, chuyên gia và nhà quản lý, tập trung vào một số nhóm vấn đề trọng tâm: phân tích xu hướng, kịch bản tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2026 - 2030 và nhu cầu vốn đầu tư cho năng lượng; kinh nghiệm quốc tế trong huy động nguồn lực phát triển năng lượng xanh, năng lượng tái tạo và năng lượng mới; đánh giá thực trạng cơ chế, chính sách và các kênh huy động vốn đầu tư cho năng lượng tại Việt Nam; nhận diện rào cản, nút thắt trong việc thu hút khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư năng lượng; đề xuất giải pháp đặc thù, vượt trội nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh và bền vững.
Trên cơ sở các tham luận và thảo luận tại Diễn đàn, Ban Tổ chức tổng hợp và chắt lọc thành báo cáo kiến nghị, đóng góp cho Chính phủ và các bộ, ngành, T.Ư trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô và chiến lược phát triển năng lượng quốc gia trong thời gian tới. Theo PGS.TS Trần Đình Thiên - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, Việt Nam đang đặt ra mục tiêu phát triển thêm khoảng 150.000MW năng lượng tái tạo đến năm 2035. Với giả định trung bình 100MW cho mỗi dự án, điều này đồng nghĩa với việc cần triển khai thêm 1.500 dự án trong vòng 10 năm. Để đạt mục tiêu tăng 150.000MW, Việt Nam cần những thay đổi cách mạng trong cơ chế, chính sách như đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn năng lượng.
PGS.TS Trần Đình Thiên cho hay, Chính phủ và Bộ Công Thương đã ban hành các quy định mới và khung giá các loại nguồn, kỳ vọng tạo được động lực huy động vốn đầu tư vào các nguồn điện lớn và năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, do số lượng dự án cần thực hiện đầu tư rất lớn, nhất là vào các nguồn năng lượng tái tạo, sẽ rất khó khăn trong việc thực hiện đấu thầu và chọn nhà thầu, trong khi nhân lực chuyên môn của các địa phương còn hạn chế. Tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải giai đoạn 2005 - 2030 tương đương 136,3 tỷ USD, trong đó, nguồn điện 118,2 tỷ USD, lưới điện truyền tải 18,1 tỷ USD, trung bình cần 24,78 tỷ USD/năm (riêng nguồn điện cần đầu tư 21,5 tỷ USD/năm).Trong khi thách thức về thể chế và thời gian vẫn còn khá nhiều, thống kê Bộ Tài chính cho thấy cả nước có 2.212 dự án đang triển khai phải dừng lại do gặp vướng mắc thủ tục, pháp lý với tổng vốn đầu tư 6 triệu tỷ đồng, sử dụng gần 350.000ha đất. Riêng TP Hồ Chí Minh có 504 dự án bị đình trệ do vướng pháp lý, chiếm gần 7.179ha đất với giá trị ước tính khoảng 7 triệu tỷ đồng.
Đầu tư hạ tầng năng lượng cần được ứng xử như đầu tư hạ tầng giao thông
Theo Chủ tịch Hiệp hội Dầu khí Việt Nam Nguyễn Quốc Thập, để giải quyết những tồn tại và phát triển mạnh các cơ hội, cần có đột phá về nhận thức và tư duy như: đầu tư hạ tầng năng lượng cần được ứng xử như đầu tư hạ tầng giao thông; các hộ tiêu thụ và hộ tiêu dùng quan tâm tới năng lượng: ít phát thải, xanh, sạch, ổn định, cam kết dài hạn và sau cùng là giá; giá điện ưu đãi với các đối tượng chính sách, các đối tượng còn lại theo cơ chế thị trường; nhà đầu tư và cơ quan quản lý cùng ngồi trên chiến thuyền và cùng đích đến. Đồng thời cần quán triệt đầy đủ tinh thần các nghị quyết của Bộ Chính trị gần đây để hoàn thiện cơ chế chính sách (các Bộ Luật và Nghị định) làm cơ sở cho việc hiện thực hóa Quy hoạch Điện 8 điều chỉnh và Quy hoạch năng lượng Quốc gia. Đồng thời cần đầu tư các dự án tạo ra nguyên liệu đầu vào; các dự án nguồn điện và lưu trữ điện; dự án truyền tải đấu nối; xây dựng thị trường carbon và định giá khí thải; rà soát và hoàn thiện các quy hoạch tổng thể, đồng bộ sau điều chỉnh các đơn vị hành chính đối với các dự án năng lượng, đấu nối, truyền tải, và nhà máy/khu công nghiệp.
TS Nguyễn Anh Tuấn – Trung tâm Đào tạo và Truyền thông Ngân hàng BIDV cho rằng, rào cản về chính sách và pháp lý thiếu ổn định, đồng bộ và cơ chế giá chưa rõ ràng. Cùng với đó là hạn chế về hạ tầng lưới điện, điểm nghẽn truyền tải và tích hợp năng lượng tái tạo. Các DN cũng khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng do yêu cầu kỹ thuật chuyên sâu và nhu cầu vốn dài hạn, mặt khác còn đối mặt với rủi ro và chi phí cao, đặc biệt cho các dự án quy mô lớn và công nghệ mới, các hạn chế của sự phụ thuộc và nhiên liệu hóa thạch và cường độ năng lượng cao.
Cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách như: ổn định cơ chế giá, luật hóa năng lượng tái tạo, chính sách đất đai và thuế; phát triển hạ tầng lưới điện thông minh và hệ thống lưu trữ năng lượng; nâng cao năng lực thẩm định và quản lý dự án. Bài học kinh nghiệm từ các quốc gia và khu vực khác cũng là những kinh nghiệm để Việt Nam học hỏi. Cùng với đó là sự đa dạng hóa và tối ưu hóa các kênh huy động vốn như: phát triển trái phiếu xanh, khuyến khích tư nhân, hợp tác quốc tế, mô hình tài chính sáng tạo.