Đặt nền móng nhân lực cho chương trình điện hạt nhân quốc gia
Nhân lực chất lượng cao là nền tảng để Việt Nam tiến tới làm chủ công nghệ và vận hành an toàn các dự án điện hạt nhân.
“Chìa khóa” làm chủ công nghệ hạt nhân
Việc phát triển điện hạt nhân không chỉ là câu chuyện của công nghệ, mà quan trọng hơn cả là câu chuyện của con người. Chính con người sẽ là yếu tố quyết định vận hành an toàn, khai thác hiệu quả và làm chủ công nghệ hạt nhân trong tương lai. Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ThS. Bùi Trung Thông, Ban Hợp tác quốc tế, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vai trò trung tâm của Viện trong nghiên cứu, đào tạo và chuẩn bị nhân lực cho chương trình điện hạt nhân quốc gia.
Ông Thông cho biết, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam không chỉ là đơn vị thúc đẩy các ứng dụng năng lượng nguyên tử phi điện mà còn trực tiếp tham gia vào chương trình điện hạt nhân quốc gia. Trong giai đoạn trước, Viện từng giữ vai trò Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật (TSO) cho cả cơ quan quản lý và vận hành, tham gia quá trình nghiên cứu tiền khả thi dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, tư vấn công nghệ và chuẩn bị báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.

ThS. Bùi Trung Thông, Ban Hợp tác quốc tế, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Ảnh: Quốc Chuyển
Tiếp nối những nền tảng đó, hiện Viện đang triển khai các chương trình nghiên cứu và phát triển dài hạn nhằm tiếp thu, làm chủ các công nghệ tiên tiến, trong đó có công nghệ lò phản ứng hạt nhân module nhỏ (SMR), xu hướng mà nhiều quốc gia trên thế giới đang theo đuổi song song với phát triển các nhà máy điện hạt nhân công suất lớn.
Không chỉ dừng lại ở nghiên cứu, Viện cũng tích cực hợp tác quốc tế, phối hợp với đối tác là Tập đoàn nhà nước về năng lượng hạt nhân Rosatom (Nga) trong triển khai dự án trung tâm nghiên cứu hạt nhân mới với nòng cốt là lò phản ứng nghiên cứu công suất 10 MW. Song song, đội ngũ cán bộ, chuyên gia được cử tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và các viện nghiên cứu hạt nhân hàng đầu, như Dubna (Nga). Viện cũng hợp tác với Rosatom để đào tạo vật lý hạt nhân, xây dựng chương trình đào tạo gắn với sử dụng, khai thác, nghiên cứu, hướng tới mục tiêu đào tạo từ 1.600 - 1.800 nhân lực phục vụ nghiên cứu và triển khai công nghệ hạt nhân, bao gồm nhân lực vận hành nhà máy điện hạt nhân trong tương lai.

Nhân lực chất lượng cao là nền tảng để Việt Nam tiến tới làm chủ công nghệ và vận hành an toàn các dự án điện hạt nhân. Ảnh: Nguyễn Tuấn
“Cái nôi” đào tạo chuyên gia hạt nhân từ thực tiễn vận hành
Theo ThS. Bùi Trung Thông, muốn có đội ngũ chuyên gia hạt nhân trình độ cao, Việt Nam cần xây dựng Chương trình nghiên cứu cấp quốc gia và Kế hoạch quốc gia đào tạo nguồn nhân lực toàn diện, hiệu quả. Bởi thực tế cho thấy, những quốc gia phát triển điện hạt nhân như: Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc đều sở hữu đội ngũ chuyên gia đông đảo. “Con người chính là yếu tố then chốt bảo đảm an toàn và hiệu quả của các dự án điện hạt nhân”, ông nói.
Ngày 26/5/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1012 phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ phát triển điện hạt nhân đến năm 2035. Cùng với đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng Đề án đào tạo, phát triển nhân lực năng lượng nguyên tử cho các tổ chức vận hành, cơ quan pháp quy và đội ngũ chuyên gia. Theo ông, để đào tạo một chuyên gia giỏi về hạt nhân cần quá trình dài hơi. Việc đào tạo hoàn toàn ở nước ngoài sẽ tốn kém, nên hướng đi phù hợp là kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo lại sau khi cán bộ học tập nước ngoài trở về.

Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Ảnh: Nguyễn Tuấn
Một lợi thế đặc biệt của Việt Nam là Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đang vận hành Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, đây là cơ sở duy nhất trong nước. Lò phản ứng này được xây dựng từ thập niên 1960, hoạt động từ 1963 và nâng cấp sau 1975 với sự hỗ trợ của quốc tế, vận hành an toàn liên tục hơn 40 năm qua. Ông Thông cho biết, đây là điều kiện rất thuận lợi vì nhiều quốc gia cũng dùng lò nghiên cứu làm nơi đào tạo cơ bản trước khi bước vào điện hạt nhân.
“Dù có khác biệt kỹ thuật giữa lò nghiên cứu và nhà máy điện hạt nhân, song các nguyên tắc vật lý, bảo đảm an toàn và xử lý nhiên liệu đã qua sử dụng lại có nhiều điểm tương đồng”, Ths. Bùi Trung Thông khẳng định.
Từ thực tiễn này, Viện xây dựng chương trình đào tạo dựa trên kinh nghiệm các quốc gia đi trước, đồng thời phối hợp với các cơ sở đào tạo trong nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công Thương để làm nơi thực hành cho sinh viên tốt nghiệp các ngành vật lý hạt nhân. Nhờ đó, sinh viên có thể tiếp cận thực tiễn, không bị bỡ ngỡ khi ra nước ngoài học tập, góp phần hình thành lực lượng chuyên gia vững chuyên môn, giàu thực tiễn.
“Việc có chính sách và chương trình nghiên cứu quốc gia là hoàn toàn cần thiết để rút ngắn thời gian, đạt mục tiêu vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào giai đoạn 2035. Nhân lực chính là chìa khóa để biến kế hoạch này thành hiện thực”, ThS. Bùi Trung Thông khẳng định.
ThS. Bùi Trung Thông, Ban Hợp tác quốc tế, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam: Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt có công suất 500 kWt, là nơi sản xuất thuốc phóng xạ cho y tế, công nghiệp và đào tạo nhân lực năng lượng nguyên tử cho Việt Nam.