Đào Tấn - nhà soạn tuồng tài năng, yêu nước
Nhà soạn tuồng và đạo diễn tuồng nổi tiếng Đào Tấn sinh năm Ất Tỵ 1845, xứng đáng được Nhà nước ta đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh Danh nhân văn hóa thế giới vì những đóng góp của ông với nghệ thuật tuồng và tư tưởng nhân văn trong các tác phẩm.
Đào Tấn tên thật là Đào Đăng Tấn, quê ở Tuy Phước (Bình Định); tự là Chỉ Thúc, hiệu là Tô Giang, Mộng Mai, từng giữ chức Tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay), Thượng thư Bộ Công. Là vị quan thanh liêm thời nhà Nguyễn, nhưng đưa ông lên vị trí nhà văn hóa lớn là nhà soạn tuồng, đạo diễn tuồng nổi tiếng.
Ông thuộc dòng dõi Đào Duy Từ (1572-1634)-danh nhân thời Chúa Nguyễn, vào lập nghiệp ở đất Đàng Trong đầu thế kỷ 17; là học trò cụ Tú Nguyễn Diêu, nhà soạn tuồng bậc thầy (tác giả vở tuồng "Hồ Nguyệt Cô hóa cáo"). Năm 19 tuổi, Đào Tấn đã soạn vở tuồng Tân Dã đồn (năm 1864) gây chú ý. Năm 23 tuổi, ông đỗ Cử nhân tại Trường thi Bình Định, dưới triều Vua Tự Đức. Nhờ văn tài, năm 1871, Đào Tấn được bổ chức Điển tịch, sung vào Hiệu thư ở Nội các của triều đình, lo việc biên soạn và sáng tác. Sau đó được thăng chức Phủ doãn Thừa Thiên, Tổng đốc An-Tĩnh, Tổng đốc Nam-Ngãi, Thượng thư Bộ Hình, Thượng thư Bộ Binh, Thượng thư Bộ Công, được phong Hiệp biện Đại học sĩ. Năm 1904, Đào Tấn xin cáo quan, lui về quê nhà ở ẩn.
Trong tác phẩm "Búp sen xanh", nhà văn Sơn Tùng kể cuộc gặp gỡ giữa Đào Tấn và cụ Nguyễn Sinh Sắc là “một kỳ duyên thời cận đại của đất nước”. Theo nhà văn, quan Thượng thư Đào Tấn từng đến gặp gỡ, đàm đạo với cụ Nguyễn Sinh Sắc khi ấy đang trọ tại kinh đô Huế. Qua câu chuyện giữa họ, cậu bé Côn (tên gọi hồi nhỏ của Bác Hồ) đặc biệt hứng thú với tuồng, rộng hơn là với truyền thống văn hóa phương Đông. Những ý tưởng, sự say mê nghệ thuật sân khấu dân tộc sớm hình thành ở danh nhân văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh sau này.
Theo sử sách ghi lại, khi làm Tổng đốc An-Tĩnh, Đào Tấn từng bênh vực Nguyễn Sinh Sắc khi cưỡng lệnh triều đình không đi làm quan, từng che chở cho Phan Bội Châu khi để lộ việc đánh thành Nghệ An (năm 1901). Cũng chính Đào Tấn cấp giấy thông hành cho Phan Bội Châu đi khắp Bắc Kỳ. Khi Phan Đình Phùng tạ thế, Đào Tấn ca ngợi: “Rõ thật tùng mai khí tiết, tinh thần một thác sáng trăng sao”.
Đào Tấn còn khảng khái làm thơ khóc những người hy sinh vì nước như Hoàng Kế Viêm, Hoàng Diệu. Những sự kiện ấy cho thấy Đào Tấn là nhà Nho yêu nước, bản lĩnh, trọng lẽ phải. Nhiều nghiên cứu khẳng định làm quan chỉ là điểm tựa để Đào Tấn thực hiện lý tưởng trung nghĩa và soạn tuồng tốt hơn. Đỉnh cao trong sự nghiệp tuồng Đào Tấn là từ năm 1898 đến 1902, với các vở: "Cổ thành hội" (tức "Quan Công quá quan"), "Trầm Hương các", "Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan", "Hộ sinh đàn" (tức "Hộ sanh đàn")...
Đặc trưng tuồng Đào Tấn thể hiện ở mục đích nâng cao nhận thức xã hội và thị hiếu thẩm mỹ cho quần chúng. Hầu hết các vở đều gắn với những vấn đề mang ý nghĩa thời sự của đất nước bằng hình thức mới mẻ, luôn có xu hướng phá vỡ khuôn mẫu ước lệ công thức, đưa hình tượng về gần với đời thường. Ông đưa hài kịch vào tuồng, mở ra trường thẩm mỹ mới vui vẻ, lạc quan, hài hước, chú trọng xây dựng tính cách vừa đa dạng vừa sâu sắc để nâng nhân vật mang tầm biểu tượng.
Những quan niệm nghệ thuật này thể hiện rõ ở sự kết hợp tính tự sự với tính trữ tình, chất hiện thực gân guốc với chất thơ bay bổng. Rất tôn trọng người xem, phần lớn các vở chỉ có một hồi, giao đãi nhanh, đi ngay vào nội dung và thường kết thúc không theo lối có hậu để dành cho khán giả những thao thức, phán đoán, tưởng tượng theo cảm nhận của mình. Nhân vật anh hùng Triệu Khánh Sanh (trong "Diễn võ đình") khép lại vở diễn bằng những câu hỏi như xoáy vào tâm trạng người xem: Hương quan hà xứ thị?/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu/ Chút thân liều gửi cung dâu/ Đố con lương mã biết đâu là nhà? Tình quê sẽ ra sao, phận người sẽ thế nào khi đang trong hoàn cảnh tứ cố vô thân, đành một phép liều thân mong gặp may mắn.
Cũng là ngầm một câu hỏi: Nếu là nhân vật, khán giả có giải quyết như vậy không? Mỹ học tiếp nhận hiện đại gọi đây là thủ pháp “kéo người đọc, người xem vào tác phẩm”. Theo truyền ngôn (do bà Đào Kim Yến, con gái của Đào Tấn kể), Đào Tấn dựng vở "Tây Du" bằng cảnh thật, diễn viên diễn trong rừng núi thật. Nếu điều này đúng càng cho thấy một quan niệm về văn học-nghệ thuật phải gần gũi với đời sống, gắn với đời sống để thể hiện cái chân-thiện-mỹ. Những điều ấy cho phép khẳng định Đào Tấn là một soạn giả sớm có quan niệm mới mẻ, hiện đại. Hoàn toàn xứng đáng khi nghệ thuật sân khấu và giới nghệ sĩ tuồng tôn vinh Đào Tấn là hậu tổ.
Suốt cuộc đời làm quan, chưa bao giờ Đào Tấn rời cây bút và trường hát. Ông là người đầu tiên thành lập các đội tuồng chuyên nghiệp. Trường dạy nghề hát của Đào Tấn có tên Học bộ đình và rạp hát do ông xây dựng có tên Như Thị Quan. Trước cửa rạp, ông cho treo câu đối để gửi gắm tâm sự, cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của mình: Trời chẳng cho nhàn, tìm chút thảnh thơi trong bận rộn/ Việc đời như kịch, chớ cười trong giả ấy không chân (Xuân Diệu dịch). Chúng ta liên tưởng tới William Shakespeare (1564-1616), nhà văn vĩ đại nước Anh, nhà viết kịch nổi tiếng thế giới, sinh thời, trước mỗi buổi diễn, ông cho căng trước rạp khẩu hiệu “Cả thế giới đang diễn kịch”.
Phải chăng có sự tương đồng quan niệm của hai tư tưởng lớn? Với Đào Tấn, còn cụ thể hơn, “chớ cười trong giả ấy không chân” tức cái lõi, hạt nhân của tác phẩm văn học-nghệ thuật (được sáng tạo, hư cấu) chính là sự thật. Với phương châm Tùy xứ khôi hài/ Phùng trường tác hý (Tùy nơi mà cười/ Tùy đối tượng mà châm biếm) cho thấy quan niệm nghệ thuật của Đào Tấn rất nghiêm túc, xác định rõ đối tượng nào đáng lên án, tố cáo, đối tượng nào phải bênh vực, cảm thông.
Đào Tấn còn là tấm gương nhân cách yêu nước lớn. Đủ cứ liệu khẳng định ông là thầy dạy Vua Thành Thái, theo sát vua đến lúc bị buộc phải về quê. Năm 1907, Vua Thành Thái bị ép thoái vị rồi bị quản thúc, Đào Tấn buồn mà phát bệnh... Sinh thời, ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, được nhân dân kính trọng. Ông qua đời ngày 23-8-1907 trong niềm tiếc thương của giới Nho sĩ và nhân dân. Phần mộ và đền thờ ông ở Bình Định, nơi có Nhà hát Tuồng Đào Tấn (nay thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Bình Định). Tên ông được đặt cho nhiều đường phố tại các tỉnh, thành phố và một giải thưởng về văn học-nghệ thuật cũng được mang tên ông.
Để lại một di sản nghệ thuật đồ sộ với hơn 1.000 bài thơ, từ, gần 100 vở tuồng và tập sách lý luận sân khấu "Hý trường tùy bút", Đào Tấn vừa lưu giữ truyền thống nhưng cũng là người cách tân truyền thống khá triệt để. Là người đầu tiên phá vỡ đề tài “quân quốc” (vua quan) để mở ra chân trời sáng tạo nghệ thuật mới cho tuồng. Xin giới thiệu vở "Hộ sinh đàn" tiêu biểu.
Mượn bối cảnh thời Tàn Đường, thời thất thế của các trung thần, tiêu biểu là vợ chồng Tiết Cương. Bị Võ Tam Tư (cháu Võ Tắc Thiên) truy sát, Tiết Cương đến lánh nạn ở vùng sơn cước, kết duyên với Lan Anh. Một lần về kinh, Tiết Cương bị phát hiện, bao vây nhưng được vợ chồng Tần Hán giải cứu. Võ Tam Tư đem binh đuổi theo. Bất chấp hiểm nguy, Lan Anh xuyên rừng đi cứu chồng. Tiết Cương, Lan Anh lạc nhau. Giữa rừng thẳm, Lan Anh trở dạ đẻ con trai Tiết Quỳ. Tiết Cương dạt đến Đăng Châu gặp bạn cũ Tiết Nghĩa đang làm quan. Tiết Nghĩa phản bội ân nhân định bắt Tiết Cương nộp cho Võ Tam Tư. Dương Tú Hà, vợ Tiết Nghĩa trọng tình nghĩa, khuyên chồng không được bèn tự tử. Được các bạn Ngũ Hùng, Tần Hán cứu, Tiết Cương tìm được Lan Anh. Nhờ ý chí và sự phù hộ của thần thánh, Tiết Cương đánh bại Võ Tam Tư...
Vở tuồng ca ngợi những con người có nghĩa khí, tấm lòng trong sạch, trung thành, sắt son, hiếu hạnh. Ánh hồi quang từ hiện thực thối nát của triều đình nhà Nguyễn hắt bóng vào tác phẩm khá rõ qua mối quan hệ đối nghịch giữa những kẻ tàn ác, bội tình, bội nghĩa với một bên là những người trung nghĩa, chính trực. Tỏa sáng rờ rỡ trong vở tuồng là các nhân vật nữ với những thân phận xã hội khác nhau. Trước đó, nhân vật của tuồng chỉ là vua quan nhưng đến "Hộ sinh đàn" đã xuất hiện các nhân vật nữ và có cả chuyện sinh nở. Giới nghiên cứu đánh giá vở tuồng là đỉnh cao sáng tạo của Đào Tấn, là kiệt tác của sân khấu Việt Nam.
Trước đó khoảng nửa thế kỷ, Cao Bá Quát tự nhận “suốt đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa). Đào Tấn đặt tên hiệu là Mộng Mai với mong muốn: “Ước mộng hồn ta là đóa mai”. Hoa mai đẹp, sang trọng, khí khái, cốt cách như tâm hồn những nghệ sĩ lớn đang khoe sắc, tỏa hương. Với tài năng và nhân cách ấy, Đào Tấn xứng đáng được Nhà nước ta đề nghị UNESCO tôn vinh Danh nhân văn hóa thế giới.
PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ