Đại Từ vững tin trong từng bước đi
Ngày cuối năm, trời trong và xanh thẳm, nắng nhuộm sắc vàng lên vạn vật khiến cho bức tranh quê hương Đại Từ thêm phần rực rỡ, cuốn hút lòng người. Chúng tôi tạm gác những lo toan, công việc bộn bề thường nhật, tìm về với suối Kẹm (La Bằng), Cửa Tử (Hoàng Nông), rồi ngắm hoàng hôn ở sườn Đông Tam Đảo… Đại Từ 'hút hồn' chúng tôi không chỉ bởi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng mà còn bởi những công trình, dự án trọng điểm đang vươn cao, nâng tầm 'sắc vóc' Đại Từ để sớm trở thành thị xã…
Thoát nghèo, làm giàu nhờ cây chè
Đi giữa những nương chè trải rộng ngút tầm mắt, ngắm nhìn sự bao la của đất trời, thấp thoáng trong ráng chiều, bóng các bà, các chị tay thoăn thoắt hái những búp chè đông, mà tâm hồn chúng tôi thư thái, nhẹ nhàng đến lạ. Tôi chợt nhớ đến 2 câu thơ của Đỗ Lỗi: “Đêm lạnh khách thăm trà thay rượu/ Bếp lò đun nước lửa đang hồng”.
Không chậm chễ, chúng tôi vội vàng ra xe để kịp lời hẹn với một người bạn mời ăn cơm tối với gia đình. Nhà bạn tôi ở xóm Tiên Trường 1, xã Tiên Hội - là một trong những vùng chè ngon nổi tiếng của đất Đại Từ. Bạn tôi cũng từng có một thời nghèo khổ, nhưng nhờ biết “dựa” vào cây chè mà “đứng vững” vươn lên thành “bà chủ”, có nhà lầu, xe hơi… Đêm đó, chúng tôi lấy trà thay rượu, ngồi nhâm nhi từng ngụm trà thơm, đượm hậu, tâm tình, sẻ chia chuyện mình, chuyện đời, gói ghém những kết quả của một năm đã qua, hy vọng vào một năm mới với những điều tốt đẹp…
Bạn tôi chỉ là một trong hàng nghìn hộ làm chè, sống nhờ vào cây chè mà thoát nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng ở đất Đại Từ. Với hơn 6.500ha, trong đó có 1.600ha chè đông - Đại Từ đứng đầu tỉnh về diện tích chè. Cây chè trở thành cây kinh tế mũi nhọn góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện Đại Từ phát triển. Nhờ tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thâm canh, năng suất chè ở Đại Từ đạt gần 130 tạ/ha; sản lượng chè búp tươi đạt hơn 80.000 tấn; giá trị chè hằng năm đạt trên 2.000 tỷ đồng; giá trị trên 1ha đất trồng chè đạt hơn 400 triệu đồng/năm...
Đó là con số mà nhiều địa phương có đất chè trong tỉnh mơ ước. Chính vì thế, khi nói về “bức tranh” kinh tế của huyện, chúng tôi không thể không nhắc tới cây chè. Cây chè đã góp phần giúp hàng trăm hộ nghèo thoát khỏi danh sách “đặc biệt khó khăn”, vươn lên có cuộc sống ổn định, từng bước làm giàu, như gia đình chị Trần Thị Nhung, xóm Làng Thượng, xã Phú Thịnh; ông Nguyễn Văn Cư, ở xóm Phúc Tiến, xã Phúc Lương; chị Nguyễn Thị Tình, xóm 13, xã Tân Linh…
Tỷ lệ hộ nghèo của huyện liên tục giảm sâu qua các năm, nếu như năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 7,84% thì năm 2024 chỉ còn 2,23%. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn của huyện năm 2024 ước đạt 53,38 triệu đồng/người/năm.
Từ một huyện miền núi sản xuất nông nghiệp lạc hậu, đời sống khó khăn, cơ sở hạ tầng kém phát triển, đến nay, Đại Từ đã đạt được những kết quả nổi bật, rất đáng tự hào.
Vươn tầm thị xã
Có “thực mục sở thị” mới cảm nhận được sự đổi mới, vươn lên nhanh chóng của một huyện thuần nông trước kia, nay đã “thay da đổi thịt” mang dáng dấp đô thị loại IV. Huyện Đại Từ đã đạt 3/5 tiêu chuẩn thị xã; đạt điểm tối thiểu của 5/5 tiêu chí đô thị loại IV (đạt 78/75 điểm theo phân loại đô thị); hoàn thành các tiêu chuẩn, đủ điều kiện công nhận phường đối với thị trấn Hùng Sơn, thị trấn Quân Chu và xã Tiên Hội.
UBND huyện đã tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác thu hút đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực trung tâm huyện và trung tâm các xã, thị trấn. Các khu đô thị, khu dân cư mới được xây dựng đồng bộ theo quy hoạch, khớp nối với hệ thống giao thông và các khu dân cư hiện có, tạo điểm nhấn đô thị, nông thôn mới với diện mạo ngày càng khang trang, hiện đại, là tiền đề quan trọng để định hình thị xã Đại Từ.
Tổng vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên địa bàn giai đoạn 2020-2025 đạt 22.612 tỷ đồng, tăng 2,5 lần so với giai đoạn 2015-2020, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (mục tiêu là tăng 1,5 lần). Trong nhiệm kỳ, huyện thu hút được 28 dự án đầu tư ngoài ngân sách với tổng vốn đăng ký đầu tư 10.455 tỷ đồng; triển khai trên 320 dự án đầu tư công với tổng vốn đầu tư trên 2.750 tỷ đồng.
Từ năm 2021 đến nay, huyện đã đầu tư, nâng cấp, mở rộng trên 440km đường giao thông các loại (đường huyện là 36,8km; đường giao thông nông thôn trên 410km). Đặc hiệt, huyện đã chỉ đạo thực hiện tốt phong trào “mở rộng đường xóm 6m”, đến nay, đã mở rộng nền đường được trên 272km; thi công nền đường được gần 234km; thi công mặt đường được gần 122km; nhân dân hiến hơn 519.000m2 đất, tổng giá trị đất và tài sản trên là hơn 88,7 tỷ đồng.
Huyện đã triển khai thực hiện Đề án Phát triển và Quản lý giao thông huyện giai đoạn 2021-2025; phối hợp thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án: Đường liên kết, kết nối các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang và Vĩnh Phúc (đoạn qua huyện Đại Từ có chiều dài 9,1km); nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 37 đoạn qua trung tâm huyện, tuyến ĐT.261, tuyến ĐT.270; cải tạo, sửa chữa một số đoạn tại các tuyến ĐT.264, ĐT.263, ĐT.263B; ĐT.263C, tổng giá trị đầu tư trên 500 tỷ đồng. Ngoài ra, huyện còn thực hiện đầu tư, nâng cấp, sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng 12 tuyến đường huyện với chiều dài 133,93km, tổng kinh phí đầu tư 431,47 tỷ đồng; các tuyến đường xã với tổng kinh phí 390 tỷ đồng.
Năm 2024, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện ước đạt hơn 10.650 tỷ đồng, tăng hơn 2.038 tỷ đồng so với năm 2020 và tăng bình quân 4,3%/năm. Huyện thành lập mới 2 cụm công nghiệp với diện tích 118ha. Hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp địa phương phát triển đa dạng về ngành nghề, quy mô sản xuất được mở rộng. Huyện đã thành lập mới 45 hợp tác xã, 10 làng nghề, 9 sản phẩm công nghiệp được công nhận sản phẩm nông thôn tiêu biểu cấp huyện; thực hiện Chương trình Phát triển du lịch; xây dựng quy hoạch để thu hút các dự án phục vụ du lịch chuyên nghiệp, hiện đại tại các xã: Tân Thái, Cát Nê, thị trấn Quân Chu, thu hút Dự án sân golf tại xã Tân Thái; quy hoạch chi tiết xây dựng điểm du lịch xã La Bằng, xã Hoàng Nông, đến nay, có 2 điểm du lịch được cấp có thẩm quyền công nhận.
Cùng với đó, huyện chỉ đạo thực hiện tốt phong trào thi đua chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Hằng tháng, địa phương tổ chức ra quân thực hiện giải tỏa hành lang, chỉnh trang đô thị; đầu tư xây dựng hệ thống chiếu sáng đô thị QL.37, ĐT.261, trung tâm các xã; đầu tư dự án chỉnh trang lát vỉa hè khu vực trung tâm huyện, ĐT.263B xã Văn Yên; chỉnh trang mở rộng hệ thống giao thông trung tâm các xã Phú Thịnh, Mỹ Yên, Đức Lương, Phúc Lương, Phú Cường... chỉ đạo thực hiện xây dựng tuyến phố văn minh đô thị đối với 14 xã, thị trấn dự kiến thành phường.
“Trong thời gian tới, huyện Đại Từ tiếp tục huy động nguồn lực đầu tư các danh mục công trình, dự án hoàn thiện tiêu chí đô thị loại IV; đầu tư hoàn thiện hạ tầng khu đô thị trung tâm huyện và trung tâm các xã, thị trấn; thu hút đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị đối với các xã dự kiến thành lập phường. Thực hiện hoàn thành tiêu chuẩn về cơ cấu, trình độ phát triển kinh tế, xã hội trong tiêu chuẩn thị xã và đô thị loại IV, lập Đề án công nhận huyện Đại Từ đạt tiêu chí đô thị loại IV; Đề án công nhận huyện Đại Từ trở thành thị xã...” - Đồng chí Nguyễn Nam Tiến, Chủ tịch UBND huyện, cho biết.
Chia tay Đại Từ một chiều cuối năm, vẳng bên tai câu hát ru hồn người với bao hoài niệm, lòng rưng rưng niềm vui khó tả bởi sức bật của huyện miền núi đong đầy kỷ niệm một thời tươi trẻ: “Đại Từ ơi, Đại Từ ơi! Tôi tìm lại quê hương tuổi thơ tôi/ Tiếng sáo diều ngày nào nơi cuối trời tìm về bài ca trong tiếng ru hời/ Tiếng sáo diều ngày nào nơi cuối trời tìm về bài ca trong tiếng ầu ơ…”
Từ năm 2021 đến nay, toàn huyện đã giải quyết việc làm mới cho trên 15.000 người. Số lao động được đào tạo đạt trên 10.000 người, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 75%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ đạt trên 35%.