Đại học vẫn 'đi bộ' trên đường đua nghiên cứu

Từ câu chuyện Trường Đại học Y Dược TPHCM tăng thu khoa học công nghệ năm ngoái lên hơn 100 tỉ đồng, nhưng, nhìn rộng mới thấy phần lớn đại học Việt Nam vẫn loay hoay với bài toán nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, dù đã có cơ chế thúc đẩy và giờ, Nhà nước lại tiếp tục sửa đổi cơ chế thúc đẩy.

Đại học làm nghiên cứu: nhiều nhưng chưa mạnh

Theo báo cáo thường niên 2024 của Trường Đại học Y Dược TPHCM(1), tổng thu năm ngoái đạt 1.123 tỉ đồng, trong đó thu từ khoa học và công nghệ hơn 105 tỉ đồng, chiếm 9,35% tổng thu, gấp ba lần mức 30 tỉ đồng năm 2023. Đây là tín hiệu tốt hiếm hoi trong hoạt động khoa học công nghệ của hệ thống giáo dục đại học.

Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện Nghị định 109/2022/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Chính phủ quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy, nhiều trường chỉ thu vài tỉ đồng từ chuyển giao công nghệ, thậm chí dưới 1% tổng thu. Khoảng cách giữa “trường bứt tốc” và “trường đứng yên” đang ngày càng rộng, cho thấy năng lực nghiên cứu trong đại học rất không đồng đều.

Hai năm thực hiện Nghị định 109/2022, con số báo cáo có tăng, nhưng chất lượng chưa nâng tương xứng. Việt Nam có hàng chục ngàn giảng viên, hàng trăm nhóm nghiên cứu, nhưng số sản phẩm có giá trị thị trường còn rất ít.

Tỷ lệ giảng viên tham gia nghiên cứu ở nhiều trường vượt 90%, nhưng tỷ lệ bài báo thuộc nhóm trích dẫn cao chỉ 4 - 7%. Công bố quốc tế của Việt Nam mới bằng 25% Thái Lan, 12% Malaysia. Còn sinh viên thì mỗi năm có hàng ngàn đề tài, nhưng chỉ 3 - 5% có khả năng ứng dụng.

Vấn đề cốt lõi đã được biết từ nhiều năm qua, đó nghiên cứu trong đại học bị chia nhỏ, manh mún, thiếu động lực và thiếu thị trường tiếp nhận. Đó cũng là lý do Chính phủ ban hành nghị định 109 nói trên.

Thủ tục trói tay nhà khoa học, giảng viên

Nghị định 109 yêu cầu các trường ban hành quy chế quản lý nghiên cứu. Các trường đã làm, làm nhiều và làm rất đầy đủ. Nhưng chính sự đầy đủ đó lại trở thành rào cản lớn. Một đề tài vài chục triệu đồng cần hồ sơ 50 - 70 trang. Khảo sát nhóm, thuê chuyên gia, mua phần mềm đều có nguy cơ “không đúng định mức”. Báo cáo tài chính nhiều tầng, nhiều chữ ký, nhiều lần giải trình. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, 70% thời gian của chủ nhiệm đề tài bị tiêu tốn vào thủ tục hơn là nghiên cứu.

Pharmacity ký kết hợp tác với trường Đại học Nguyễn Tất Thành (ảnh chỉ có tính chất minh họa). Ảnh: TL

Pharmacity ký kết hợp tác với trường Đại học Nguyễn Tất Thành (ảnh chỉ có tính chất minh họa). Ảnh: TL

Cơ chế “tiền kiểm” biến nhà khoa học, giảng viên đại học thành người sợ sai. Lỡ một chứng từ vài trăm ngàn đồng cũng có thể phải giải trình. Không ít giảng viên từ chối chủ trì đề tài, dù năng lực nghiên cứu tốt.

Không ít giảng viên đại học than phiền, cơ chế hiện nay đang quản lý các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao khoa học cứ như cơ chế quản lý quản lý hành chính thông thường với bao thủ tục giấy tờ và khi nhận đề tài, chương trình nghiên cứu, cứ như được “ban phát”.

Mặc dù mới ra đời 2 năm nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo thấy không còn phù hợp nên xây dựng dự thảo nghị định mới hướng đến khoán chi theo sản phẩm và miễn trách nhiệm trong trường hợp rủi ro khách quan. Nếu triển khai nghiêm túc, cơ chế này giúp nhà khoa học được “thở”, bớt nỗi lo… viết chứng từ. Đó là suy nghĩ của bộ này, thực tế sẽ như thế nào còn tùy vào mức độ sẵn sàng buông quản lý chi li của các trường và bộ máy tài chính.

Tài chính nhỏ, liên kết yếu: khó có đại học nghiên cứu mạnh

Tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) so với GDP của Việt Nam chỉ 0,5 - 0,6%, thấp hơn xa Thái Lan (1,1%) và càng không thể so với Trung Quốc (2,4%) hay Hàn Quốc (4,8%). Trong các trường, ngân sách nghiên cứu chỉ chiếm 4 - 8% tổng chi; nhiều trường dưới 2%.

Trong công bố khoa học, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM không những có sự gia tăng trong số lượng công bố khoa học quốc tế mà còn tăng chất lượng công bố khoa học quốc tế. Nguồn: https://hcmut.edu.vn

Trong công bố khoa học, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM không những có sự gia tăng trong số lượng công bố khoa học quốc tế mà còn tăng chất lượng công bố khoa học quốc tế. Nguồn: https://hcmut.edu.vn

Quỹ phát triển khoa học công nghệ của các trường đại học được phép trích tối đa 3%, nhưng đa số trích dưới 1% vì không cân đối được tài chính. “Miếng bánh” nghiên cứu nhỏ, lại chia khó, và khi chi thì càng khó hơn vì thủ tục. Doanh thu chuyển giao công nghệ của nhiều trường chỉ vài tỉ đồng/năm, tức chưa bằng một phòng thí nghiệm trung bình ở Thái Lan. Trong khi đó, các đại học Thái Lan thu 8 - 12 triệu đô la mỗi năm từ chuyển giao, gấp nhiều lần Việt Nam.

Một số trường có 5 - 20 nhóm nghiên cứu mạnh, nhưng chỉ 10 - 15% đạt chuẩn quốc tế. Lý do đơn giản: thiếu hạ tầng, thiếu quỹ ổn định, thiếu cơ chế trả lương cao và thiếu thời gian toàn tâm nghiên cứu. Giảng viên phải chia thời gian cho giảng dạy, hành chính và cả hoạt động dịch vụ.

Liên kết doanh nghiệp - trường học, vốn là mắt xích quan trọng thì ở các trường đại học vẫn mờ nhạt. Tỷ lệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu dưới 10%. Định giá tài sản trí tuệ rườm rà, cơ chế chia lợi ích chưa rõ ràng, các trung tâm chuyển giao thiếu năng lực môi giới công nghệ.

Trong khi đó, Singapore và Hàn Quốc có 25 - 40% doanh thu từ chuyển giao bắt nguồn trực tiếp từ đơn đặt hàng doanh nghiệp. Việt Nam gần như không có hợp đồng dài hạn nào giữa doanh nghiệp và đại học.

Cũng theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo trong trường tuy sôi động, nhiều cuộc thi, nhiều không gian sáng tạo, nhưng chủ yếu dành cho sinh viên. Kết nối sâu với doanh nghiệp để thương mại hóa vẫn còn xa. Muốn có đại học nghiên cứu mạnh, phải có nguồn lực tương xứng. Nhưng hiện tại, nguồn lực và cơ chế đều chưa đạt mức có thể

Chuyển từ hành chính sang quản lý theo kết quả

Dự thảo nghị định mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng trình Chính phủ mang tinh thần cởi trói: tự chủ, hậu kiểm, khoán sản phẩm, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu, mở cửa cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ bên trong lòng đại học và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Nhưng rõ ràng cởi trói trên văn bản vẫn không đủ. Cái cần thay đổi là tư duy quản trị đại học – từ kiểm soát sang trao quyền, từ sợ sai sang khuyến khích thử nghiệm, từ quản lý hành chính sang quản lý theo kết quả.

Các hoạt động khoa học công nghệ của trường Đại học Bách Khoa TPHCM. Ảnh https://hcmut.edu.vn

Các hoạt động khoa học công nghệ của trường Đại học Bách Khoa TPHCM. Ảnh https://hcmut.edu.vn

Còn các trường, dù cho có cơ chế mới, vẫn chọn cách an toàn, sợ trách nhiệm, sợ rủi ro, thì nghị định mới, nếu có, cũng sẽ chỉ là một phiên bản đẹp hơn của chính những rào cản cũ, của nghị định cũ.

Dẫu sao có một số trường như Đại học Y Dược TPHCM như đã nói ở phần đầu, đang cho thấy con đường đúng, lấy nghiên cứu nuôi nghiên cứu, lấy chuyển giao khoa học công nghệ làm động lực cho nghiên cứu phát triển.

Và nếu không thay đổi, đại học Việt Nam sẽ tiếp tục làm nghiên cứu… trên giấy, trong khi thế giới đã bước sâu vào nền kinh tế tri thức từ rất lâu.

(1) https://giaoduc.net.vn/mot-truong-dai-hoc-y-duoc-co-tong-thu-dat-tren-1000-ty-dong-nang-suat-nckh-lien-tuc-tang-post256351.gd

Hồng Văn

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/dai-hoc-van-chay-bo-tren-duong-dua-nghien-cuu/