Khoa học công nghệ và 'sức bật 3.000 km cao tốc'
Tại tọa đàm 'Sức bật từ 3.000 km cao tốc' do Báo Xây dựng tổ chức, PGS-TS Trần Chủng - Chủ tịch Hiệp hội các Nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam (VARSI) đã có những phân tích sâu sắc về vai trò của khoa học công nghệ (KHCN) và các giải pháp then chốt để đưa Việt Nam chạm mốc 5.000 km cao tốc vào năm 2030.
Sự trưởng thành từ những áp lực chưa từng có
Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, tại tọa đàm "Sức bật 3.000 km cao tốc" do Báo Xây dựng tổ chức, PGS-TS Trần Chủng bày tỏ sự tâm đắc trước sự thay đổi diện mạo của ngành giao thông vận tải. Theo ông, việc hoàn thành 3.000 km cao tốc vào năm 2025 không chỉ là con số vật lý, mà là minh chứng cho sự trưởng thành vượt bậc về cả tư duy quản lý lẫn năng lực thi công.
Ông Chủng đặc biệt nhấn mạnh đến việc xóa bỏ định kiến kinh điển trong ngành xây dựng: "Trước đây, chúng ta lo lắng về câu nói: Ở đâu có ép tiến độ, ở đâu có ép giá thì không có chất lượng công trình khi hoàn thành. Song, vừa qua, dù chúng ta thúc tiến độ nhưng nhờ KHCN, các công trình của chúng ta vẫn đảm bảo chất lượng".

PGS-TS Trần Chủng - Chủ tịch Hiệp hội các Nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam (VARSI) - Ảnh: Báo Xây dựng
Thay đổi công nghệ 20 năm bằng sáng kiến nội lực
Theo PGS-TS Trần Chủng, một trong những dấu ấn lớn nhất chính là sự dũng cảm của các nhà thầu trong việc đổi mới. Các doanh nghiệp đã nhận diện được cơ hội và sẵn sàng đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại để thay thế cho những công nghệ lạc hậu của hai thập kỷ trước.
Chính KHCN đã trở thành "cánh tay nối dài" giúp các nhà thầu thực hiện những chiến dịch "3 ca, 4 kíp", thi công xuyên lễ, xuyên Tết mà vẫn kiểm soát được độ bền vững của công trình. Ông khẳng định: "KHCN đã tác động rất lớn để góp phần hoàn thành mục tiêu 3.000 km đường cao tốc".
Ba trụ cột để bứt phá mục tiêu 5.000 km
Để đạt thêm 2.000 km cao tốc trong giai đoạn 2025 - 2030, PGS-TS Trần Chủng đề xuất tập trung vào ba nội dung cốt lõi:

Đến cuối năm 2025, sẽ có hơn 3.000 km cao tốc trên cả nước được đưa vào khai thác - Ảnh: NP
Cơ chế phải “mở đường” cho nguồn lực: Ông cho rằng chính sách cần gắn liền với thực tiễn để kịp thời tháo gỡ những "điểm nghẽn". Chỉ khi cơ chế được khơi thông, các nguồn lực xã hội và dòng vốn mới có thể đổ vào hạ tầng. Ông tâm đắc với các cơ chế đặc thù vừa qua như việc xử lý mỏ vật liệu, chỉ định thầu - những nút thắt vốn từng làm nản lòng nhiều nhà đầu tư.
Sự vào cuộc đồng bộ và phân cấp mạnh mẽ: Nhấn mạnh vai trò của địa phương, ông Chủng nhận định: "Các dự án vừa qua đã cho thấy khi địa phương vào cuộc quyết liệt, điểm nghẽn về giải phóng mặt bằng đã được tháo gỡ nhanh chóng". Trong bối cảnh mới từ ngày 1.7.2025, câu chuyện phân cấp, phân quyền cần được triển khai quyết liệt hơn để tạo sự chủ động cho các tỉnh thành dọc tuyến cao tốc.
Nhà nước đồng hành cùng sự lớn mạnh của doanh nghiệp: Đây là ý kiến tâm huyết nhất của Chủ tịch VARSI. Ông kêu gọi Nhà nước cần có cái nhìn thực tế và trân trọng hơn đối với nỗ lực của các nhà thầu, đơn vị tư vấn:
Nhà nước cần đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc đưa công nghệ mới vào thực tế thi công; Cần có cơ chế bù đắp cho những nguồn lực, tâm huyết mà doanh nghiệp đã bỏ ra vì mục tiêu chung của quốc gia.
Kết thúc phần tham luận, PGS.TS Trần Chủng kỳ vọng Bộ Xây dựng sẽ tổ chức thêm các tọa đàm, hội nghị khoa học chuyên sâu hơn. Đây sẽ là nơi để các nhà thầu trực tiếp báo cáo, chia sẻ các sáng kiến, công nghệ mà họ đã "thai nghén" trên công trường. Từ đó, ngành giao thông sẽ có những lời giải khoa học hơn, thực tiễn hơn cho khát vọng 5.000 km cao tốc, mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho đất nước.






























