Cuộc xung đột Nga-Ukraine: Giá trị của hòa bình (Kỳ cuối)
Cuộc xung đột Nga-Ukraine đã trải qua 3 năm với những tác động, thiệt hại nặng nề không chỉ cho các bên tham chiến, mà còn cho cả thế giới. Các cuộc đàm phán Nga-Mỹ trong tháng 2/2025 mở ra những kỳ vọng mới về một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột, và có lẽ đây cũng là mong muốn của người dân Nga, Ukraine và cộng đồng quốc tế.

Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử vào tháng 11/2024 và quay trở lại Nhà Trắng có thể được xem là một yếu tố kích hoạt tiến trình đàm phán cho vấn đề Ukraine. Nhưng các điều kiện cần thiết cho hòa bình, cả ở Nga và Ukraine, và giữa những người ra quyết định ở nhiều quốc gia, ngày càng rõ ràng ngay cả khi ông Trump chưa xuất hiện. Nguồn lực mà cả hai bên bỏ ra, đặc biệt là nguồn lực con người, cùng chi phí ngày càng tăng đang tạo gánh nặng lớn cho cả nền kinh tế và đời sống thường ngày của người dân.
Các cuộc khảo sát xã hội học phản ánh tiếng nói của phần lớn người dân ở cả hai nước Ukraine và Nga mong muốn về một nền hòa bình bền vững, và có lẽ đây là điều kiện tiên quyết quan trọng cho bất kỳ thỏa thuận nào.
Ý nghĩa của hòa bình đối với Nga
Trước hết, hòa bình đồng nghĩa với việc sẽ không có người thiệt mạng vì chiến tranh. Chiến tranh, xung đột quân sự càng chứng minh rằng, nguồn nhân lực là tài nguyên quan trọng cho mọi quốc gia.
Theo thống kê, lực lượng lao động sẵn có của Nga trong giai đoạn 2022-2024, ngoài hoạt động quân sự, đã giảm khoảng 2 triệu người do yếu tố nhân khẩu học: số người nghỉ hưu mỗi năm cao hơn đáng kể so với số người tốt nghiệp trường học, cao đẳng và đại học.
Trong khi đó theo Bộ Quốc phòng Nga, ít nhất 1,1 triệu người đã được triệu tập tham gia chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine trong 3 năm (330 nghìn người đươc huy động vào mùa thu năm 2022, 350 nghìn và 420 nghìn quân nhân hợp đồng vào năm 2023 và 2024).
Khoảng 550 nghìn người từ các ngành công nghiệp dân sự đã chuyển sang làm việc trong khu liên hợp công nghiệp-quân sự (theo số liệu của Phó Thủ tướng thứ nhất Denis Manturov công bố vào mùa hè năm 2024) và ít nhất 500-600 nghìn thanh niên Nga trong độ tuổi lao động đã ra nước ngoài, mặc dù một số trong đó vẫn tiếp tục làm việc cho các doanh nghiệp Nga. Những số liệu thống kê cho thấy tình trạng thiếu hụt lực lượng lao động ở Nga đang ngày càng nghiêm trọng kể từ khi xung đột quân sự Nga-Ukraine nổ ra.
Tuy nhiên, nếu hòa bình được lập lại, một phần đáng kể lực lượng lao động sẽ được đưa trở lại nền kinh tế. Sẽ có dòng chảy ngược từ tổ hợp công nghiệp-quân sự sang các ngành công nghiệp dân sự; bởi vì, mặc dù ngành công nghiệp-quân sự cần được duy trì, nhưng trong thời bình khối lượng công việc của nhiều doanh nghiệp sẽ được giảm tải và không cần đến một lực lượng lao động hùng hậu như hiện nay.
Bên cạnh đó, những thanh niên trong độ tuổi lao động sẽ trở về nước sau khi theo dõi tình hình chiến sự Ukraine và tình hình trong nước. Song nếu hành động quân sự vẫn tiếp diễn, không loại trừ khả năng sẽ diễn ra một làn sóng di cư mới của những người trẻ tuổi, những người sợ bị gọi ra mặt trận trong những năm tới.
Ngoài ra, không thể bỏ qua một lực lượng lao động nhập cư từ Kavkaz, Trung Á và các quốc gia khác tại Nga đang sụt giảm vì những lo ngại về việc đồng Rúp bị mất giá, những bất ổn ở khu vực Không gian hậu Xô Viết và cuộc xung đột ở Ukraine.
Thứ hai, chỉ khi kết thúc chiến sự, hòa bình được lập lại, chính phủ Nga mới có thể cân bằng được ngân sách. Để bảo đảm cho chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine và tình hình bất ổn ở các khu vực cận biên, Nga đã tăng mạnh chi tiêu quân sự trong những năm qua và nền kinh tế của nước này đang cho thấy dấu hiệu căng thẳng: Lạm phát đang ở mức cao và các công ty đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động. Để kiểm soát tình hình, Ngân hàng Trung ương Nga đã tăng lãi suất lên 21% vào tháng 10/2024, mức cao nhất trong nhiều thập niên.
Nhưng nếu chiến tranh kết thúc, một phần đáng kể trong chi tiêu quốc phòng hằng năm, đã tăng lên 2,5-3% GDP, có thể được phân phối lại cho cả việc khôi phục các vùng lãnh thổ mới và khu vực Kursk, cũng như cho các mục tiêu phát triển khác.
Theo giới phân tích, nếu không kết thúc chiến tranh, Nga sẽ không thể cân bằng ngân sách, mà đây chính là “chìa khóa” để kìm hãm lạm phát. Ngân hàng Trung ương Nga không thể giải quyết được vấn đề này nếu chỉ tăng lãi suất và hạn chế cho vay.
Hiện nay, hậu quả của lạm phát ngày càng được người dân và doanh nghiệp Nga cảm nhận một cách sâu sắc. Đồng Rúp mất giá đã tác động tiêu cực đến đời sống của người dân, nhất là người nghèo và những đối tượng “dễ bị tổn thương”; đồng thời, làm chậm lại đáng kể hoạt động đầu tư, vốn trở nên hoàn toàn vô nghĩa với mức lãi suất quá cao như vậy.
Do đó, việc kết thúc chiến sự và cân bằng ngân sách sẽ giúp các ngân hàng có thể giảm lạm phát thông qua những nỗ lực chung. Việc giảm lãi suất của Ngân hàng Trung ương và đồng Rúp phục hồi trở lại sẽ mở đường cho đầu tư tư nhân vào nền kinh tế. Điều này được dự báo sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khoảng thời gian từ 2-3 năm tới.
Cuối cùng, hòa bình lập lại đồng nghĩa với việc các lệnh trừng phạt Nga mà phương Tây đang áp đặt có thể từng bước được dỡ bỏ. Hoạt động thương mại-đầu tư giữa các bên được nối lại, cô lập ngoại giao chấm dứt sẽ là những thay đổi tích cực đối với người dân và doanh nghiệp Nga. Hơn nữa, nếu các lệnh trừng phạt được dỡ bỏ, sẽ có những dòng vốn đầu tư đổi vào thị trường Nga từ các quốc gia ở châu Á và Trung Đông, tạo hiệu ứng dây chuyền đối với dòng vốn từ các quốc gia khác. Ngoài lực lượng lao động, điều này sẽ cung cấp các điều kiện cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nga.
Ukraine kiệt quệ vì chiến tranh
Đối với Ukraine, nền kinh tế nước này đã mất gần 30% vào năm 2022 và sau đó tăng trưởng nhẹ, theo Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF), đạt 5,3% vào năm 2023 và 4% trong 3 quý đầu năm 2024. Vấn đề then chốt cho sự phát triển tiếp theo của đất nước chính là cải thiện đời sống của người dân và quy mô dân số tại các vùng lãnh thổ do chính quyền Kiev kiểm soát.
Thực tế hiện nay vẫn còn khoảng 9 triệu người Ukraine đang sinh sống ở nước ngoài (chiếm 22% dân số cả nước vào năm 2022). Số lượng lớn nhất đang sinh sống và làm việc ở Ba Lan (khoảng 2 triệu người), ở Đức (hơn 1 triệu người), ở Anh (khoảng 200 nghìn người), hay một số ở Romania và Canada. Theo các cuộc khảo sát xã hội học được tiến hành ở Đức và Anh vào cuối năm 2024, 70% những người Ukraine, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, muốn ở lại các quốc gia mà họ hiện đang sinh sống, thay vì trở về nước vì họ không thấy một tương lai an toàn ở Ukraine.
Do đó, việc hòa bình lập lại ở Ukraine không chỉ nhằm bảo vệ tính mạng của những người đang chiến đấu ở tiền tuyến, mà còn là cơ hội để những người tị nạn thấy được hòa bình, ổn định và trở về quê hương. Đối với Ukraine, đây có lẽ là vấn đề then chốt để bảo vệ và phát triển đất nước.
Có thể khẳng định, Ukraine hiện nay hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn viện trợ bên ngoài để duy trì năng lực quân sự, cũng như chi tiêu ngân sách. Từ nguồn viện trợ chủ yếu từ EU, Mỹ và các tổ chức tài chính quốc tế, vì một phần đáng kể nguồn viện trợ này đi qua IMF và Ngân hàng Thế giới. Theo thống kê, hỗ trợ bên ngoài chiếm tới 40% ngân sách; vì vậy, nếu không có sự hỗ trợ trực tiếp từ bên ngoài, nền kinh tế Ukraine không thể tồn tại.
Chiến tranh kết thúc đồng nghĩa với việc Ukraine có cơ hội khôi phục cơ sở hạ tầng và nền kinh tế. Mọi thống kê về số tiền cần thiết để phục hồi đất nước Ukraine sau chiến tranh là khá tương đối. Song việc giới lãnh đạo Ukraine yêu cầu Nga trả tiền để khôi phục những gì đã bị phá hủy là khó khả thi. Nga khó có thể lấy lại được vàng và dự trữ ngoại hối trong tương lai gần, những cũng không thể hợp pháp chuyển chúng vào mục đích khôi phục nền kinh tế Ukraine.
Nhiều ý kiến cho rằng, nguồn tài chính cho quá trình phục hồi đất nước Ukraine sau chiến tranh có thể sẽ là một quỹ do Liên minh châu Âu (EU) và Anh thành lập, tương tự như quỹ phục hồi nền kinh tế châu Âu sau đại dịch COVID-19 với trị giá khoảng 750 tỷ Euro hiện đang được chi dưới hình thức tài trợ và cho vay, cho các dự án cơ sở hạ tầng và đầu tư tại các nước châu Âu.
Liên minh châu Âu cũng đã “thấm mệt”
Đối với EU, việc chấm dứt hành động quân sự ở Ukraine trước hết có nghĩa là giảm đáng kể gánh nặng tài chính trong thời điểm thâm hụt ngân sách diễn ra nghiêm trọng tại các nước này.
Thực tế, châu Âu đã cung cấp sự hỗ trợ đáng kể cho Ukraine trong suốt 3 năm qua, ước tính lên tới khoảng 120 tỷ Euro. Trong khi đó, tình trạng thâm hụt ngân sách đang diễn biến phức tạp ở các nước này và đây chính là nguồn cơn của những bất ổn chính trị thời gian gần đây. Theo thống kê, tình trạng thâm hụt ngân sách ở Pháp là 6% GDP, ở Ý là 5% GDP và ở một số nước lớn khác. Vấn đề nợ công cũng diễn biến phức tạp ở các nước EU, thậm chí ở một số nước đã đạt hoặc vượt quá 100% GDP. Do đó, khi phải lựa chọn giữa việc tăng thuế, cắt giảm chi tiêu xã hội và nhu cầu tăng chi tiêu quốc phòng thì việc cắt giảm viện trợ cho Ukraine dễ hiểu là sự lựa chọn ưu tiên nhằm giải tỏa gánh nặng cho chính phủ và ngân sách của các nước châu Âu.
Giới phân tích cho rằng, cuộc xung đột Nga-Ukraine kết thúc sẽ cho phép các nước châu Âu chuyển sự chú ý từ chương trình nghị sự quân sự sang giải quyết các vấn đề trong nước; làm việc với chính quyền của Tổng thống Donald Trump, vốn đang gây ra những rạn nứt đáng kể trong quan hệ đồng minh giữa Mỹ và EU; tăng cường đoàn kết nội khối và xây dựng các kế hoạch phát triển cho tương lai.
Cần lưu ý rằng, với sức ép từ chính quyền Trump, các nước châu Âu sẽ phải tăng đáng kể chi tiêu quốc phòng trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc xung đột quân sự ở Ukraine chấm dứt, môi trường an ninh khu vực đã hạ nhiệt, các nước EU sẽ thực hiện việc này theo một lộ trình hợp lý, chứ không khẩn trương như 3 năm qua. Bên cạnh đó, EU cũng sẽ có thêm nguồn lực, thay vì viện trợ cho Ukraine, để giải quyết vấn đề an ninh năng lượng, hay đối phó với xu hướng chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, đặc biệt được dự báo sẽ là vấn đề nổi cộm ở châu Âu vào năm 2026-2027.