Cuộc đời cao đẹp của Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu - Những công lao đóng góp cho Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội
Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918 - 2012) là bậc cao tăng thạc đức có nhiều đóng góp cho Phật giáo Việt Nam thời hiện đại. Bài viết trình bày về dòng dõi gia thế, quá trình tu học và hoằng dương Phật pháp, xây dựng và điều hành Viện Đại học Vạn Hạnh, sáng lập và phát triển Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và Học viện Phật giáo Việt Nam; giới thiệu những trước tác của Ngài cùng những dịch thuật kinh tạng Pali sang Việt văn, để thấy cuộc đời cao đẹp và sự nghiệp của Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu. Những công lao đóng góp cho Đạo Phật - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội của Hòa thượng đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý.
Dòng dõi và gia thế
Hòa thượng, Giáo sư, Tiến sĩ Thích Minh Châu có thế danh là Đinh Văn Nam (1918 - 2012), sinh năm 1918 tại Quảng Nam, tịch năm 2012 tại Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên quán ở Nghi Lộc, Nghệ An. Dòng họ Đinh Văn ở xã Kim Khê, tổng Kim Nguyên, huyện Chân Lộc (Nghi Lộc), phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (nay là xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) là một danh gia vọng tộc, khoa bảng, có truyền thống yêu nước thương dân. Cao tằng tổ, Tằng tổ, Nội tổ, thân phụ và bản thân Hòa thượng đều đỗ Tiến sĩ. Trong lịch sử giáo dục khoa cử ở nước ta, trải qua cả ngàn năm, hiếm có một dòng họ nào mà có đến 5 đời liên tục được nhận học vị Tiến sĩ, tức ngũ thế đăng khoa như dòng họ Đinh Văn này ở Nghi Lộc.
Thân phụ là Hoàng giáp Đinh Văn Chấp (tức Đinh Văn Chí, 1882 - 1953), thuở ấu thơ phải lánh nạn tru di, ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý (1912), đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Quý Sửu (1913), niên hiệu Duy Tân thứ 7, từng giữ chức Đốc học1 tỉnh Quảng Nam, sau đó cáo quan về nhà dạy học, viết sách, viết báo, dịch thuật.
Bản thân Hòa thượng là con cả của cụ Hoàng giáp Đinh Văn Chấp. Trước khi xuất gia tu học, năm 1940. Ngài thi đỗ Tú tài toàn phần, được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên.
Ngài từng du học tại Sri Lanka và Ấn Độ từ năm 1952, nhận bằng Tiến sĩ tại Đại học Nalanda năm 1961, năm 1962 - 1963, được mời ở lại giảng dạy tại trường, đến năm 1964 Ngài về nước, trước năm 1975 là Giáo sư, Tiến sĩ giảng dạy tại Đại học Vạn Hạnh, thỉnh giảng tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, kiêm Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn); sau năm 1975 là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học Việt Nam (sau là Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam), Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII, IX, X, Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa bình (ABCP), Chủ tịch Trung tâm ABCP Việt Nam. Hòa thượng còn là một học giả và là một dịch giả danh giá với nhiều công trình nghiên cứu, phiên dịch kinh Tạng Pali có giá trị học thuật cao.
Quá trình tu học và hành đạo, hoằng dương Phật pháp
Năm 1940 Hòa thượng thi đỗ Tú tài toàn phần Pháp Việt tại Trường Lyceé Khải Định Huế (nay là Trường Quốc Học), rồi được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên nhưng chỉ một năm sau Ngài xin nghỉ việc bởi thấy nhiều bất công, oan sai trong khâu xét xử.
Trước khi quyết định xuất gia nhập chúng tu tập thì Ngài có nhiều năm liền tham gia Phật sự, nghiên cứu Phật pháp.
Năm 1932, phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung nở rộ, Hội An Nam Phật học ra đời, bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám là nhà trí thức yêu nước cũng là một Phật tử được bầu làm Hội trưởng kiêm Chủ bút Tạp chí Viên Âm. Phong trào học Phật do bác sĩ tổ chức có nhiều trí thức yêu nước tham gia như: Ngô Điền, Phạm Hữu Bình, Võ Đình Cường…
Hòa thượng cùng em trai là Đinh Văn Vinh đến với phong trào học Phật từ năm 1936 do bác sĩ Lê Đình Thám giảng, được phân công đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư ký của Hội. Kể từ đó, Ngài gắn bó với Hội và là hạt nhân tiên phong nòng cốt trong phong trào yêu nước chống Pháp và phát động thanh niên tham gia học Phật, góp phần phát triển Phật sự của 17 Tỉnh hội Phật giáo miền Trung. Ngài còn là một trong những người sáng lập Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục và Gia đình Phật hóa phổ (tên cũ của tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam sau này), đã có nhiều cống hiến đáng kể như vận động một số Phật tử hội viên của Hội quyên góp, bảo trợ cho Trường Phật học Báo Quốc, tòng lâm Kim Sơn. Lúc nạn đói dưới thời kỳ Nhật chiếm đóng, Ngài đã giúp sơ tán học tăng vào Nam Bộ và gởi gắm các nơi khác có điều kiện hơn.
Trong thời gian làm việc ở Hội, Ngài đã học hỏi và thâm hiểu giáo lý Đại thừa Phật giáo. Lúc này, Ngài đã vào ở hẳn tại chùa Tường Vân và thực tập nếp sống thiền môn. Từ đó, Hòa thượng quyết chí xuất gia. Năm 1946, Ngài quy y thọ giới với Trưởng lão Hòa thượng Trừng Thông Tịnh Khiết (về sau là Đức Đệ nhất Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất) tại Tổ đình Tường Vân, thuộc làng Hạ 1, xã Thủy Xuân, thành phố Huế và được bổn sư ban cho pháp danh Tâm Trí, thuộc thế hệ thứ 43 dòng Lâm Tế và là đời thứ 9 dòng Lâm Tế Liễu Quán.
Năm 1949 (Kỷ Sửu) Hòa thượng được bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Hộ Quốc chùa Báo Quốc do chính bổn sư làm Đàn đầu Hòa thượng. Trong Đại giới đàn này, Ngài được Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Tam đàn cụ túc và được Hòa thượng bổn sư ban cho pháp tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung. Sau khi thọ Cụ túc giới, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động với Hội Phật học Trung Phần, diễn giảng Phật pháp khắp các chùa Hội, hướng dẫn các thanh thiếu niên của Gia đình Phật tử, đóng góp bài viết cho Tạp chí Viên Âm, Từ Quang, Liên Hoa…, Chủ bút Tạp chí Tư Tưởng Vạn Hạnh.
Năm 1951, khi Hội thành lập Trường Trung học Bồ Đề đầu tiên ở Huế thì Ngài được mời giữ chức Hiệu trưởng. Trong Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam ba miền được tổ chức tại chùa Từ Đàm năm 1951, Ngài được cử là đại biểu tham dự chính thức.
Năm 1952, Ngài được Giáo hội và bổn sư cử du học tại Sri Lanka, học Pali và Anh ngữ tại Colombo. Năm 1955, được Trường Đại học Tích Lan tặng bằng Pháp sư (Saddammcariya). Sau đó, Ngài sang Ấn Độ và theo học tại Trường Nava Nalanda Mahavihara thuộc Đại học Bihar (Ấn Độ). Năm 1958, Ngài nhận được văn bằng Cử nhân Pali và Anh ngữ, đặc biệt đỗ thủ khoa M.A (Cao học) về Pali và Abhidhamma. Tháng 9/1961, Ngài bảo vệ luận án Tiến sĩ Phật học về đề tài “So sánh tập Pali Trung bộ kinh với tập Trung A hàm chữ Hán” (The Chinese Madhyama gama and The Pali Majjhima Nikaya (A comparative study). Ngài là người Việt Nam đầu tiên nhận bằng Tiến sĩ Phật học, Văn học Pali tại Ấn Độ, được đích thân Tổng thống Ấn Độ thời ấy đứng ra trao văn bằng Danh dự và khen ngợi về luận án này. Năm 1962 - 1963, Ngài được Đại học Bihar (Ấn Độ) mời ở lại giảng dạy.
Tháng 4/1964, sau khi trở về nước, Ngài đã đem khả năng của mình để ứng dụng vào Phật sự như phiên dịch Kinh tạng, chú trọng đến giáo dục Phật giáo. Ngài được mời giữ các chức vụ: Phó Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn (1964 - 1965), Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa và Giáo dục (Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, 1966 - 1975).
Giữa năm 1975, sau khi nước nhà thống nhất, Ngài đã bàn giao cơ sở Viện Đại học Vạn Hạnh tại 222 Trương Minh Giảng, Quận 3 cho Bộ Giáo dục quản lý. Sau đó, Ngài trở về cơ sở 2 ở Phú Nhuận thành lập Thiền viện Vạn Hạnh, nơi đây Hòa thượng đã tập trung vào việc tiếp tục phiên dịch toàn bộ Kinh tạng Pali sang Việt ngữ. Và cũng tại cơ sở này, Ngài đã mở lớp dạy Phật pháp cho Phật tử sau giờ tan sở và đề xuất với Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh giảng pháp vào sáng Chủ nhật hàng tuần cho tăng ni, phật tử. Các buổi giảng đầu tiên ở chùa Ấn Quang, chùa Xá Lợi cùng với các Hòa thượng Đôn Hậu, Thiện Châu… Từ đó, phong trào học Phật và nghe giảng pháp vào sáng Chủ nhật hàng tuần được lan rộng.
Năm 1980, trước yêu cầu cần thống nhất Phật giáo hai miền Nam - Bắc, Ngài cùng chư tôn Hòa thượng Trí Thủ, Trí Tịnh, Thiện Hào, Thiện Châu, Từ Hạnh, Hiển Pháp và các cư sĩ Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn Văn Chế, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm ở phía Nam; chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa ở phía Bắc thành lập Ban Vận động Thống nhất Phật giáo nước nhà. Hòa thượng làm Chánh Thư ký Ban Vận động. Đến tháng 11/1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được Đại hội suy cử giữ chức Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Giáo hội Phật giáo Việt Nam liên tiếp ba nhiệm kỳ I, II và III (1981 - 1997). Ngài đã từng được đảm nhận các nhiệm vụ trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam như sau:
- Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
- Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh.
- Viện trưởng sáng lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
- Chủ tịch Hội đồng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam.
- Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở I, chùa Quán sứ, Hà Nội.
- Sáng lập Tạp chí Nghiên cứu Phật học.
- Viện trưởng sáng lập Trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh).
- Trụ trì tổ đình Tường Vân, thành phố Huế; Viện chủ, Thiền viện Vạn Hạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII, IX và X. Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh. Ngài được Nhà nước trao tặng nhiều huân chương cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Đại đoàn kết.
Sáng lập, lãnh đạo và phát triển Học viện Phật giáo Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
Sau khi Phật giáo hai miền tổ chức Đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo, do nhu cầu đào tạo tăng tài, cuối năm 1981 Ngài đề nghị Giáo hội thành lập Trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở 1 đặt tại chùa Quán Sứ Hà Nội. Đến năm 1984, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở 2 được Nhà nước cho phép thành lập đặt tại Thiền viện Vạn Hạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Giai đoạn đầu, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã mời Ngài làm Hiệu trưởng cả hai trường.
Chương trình học theo niên chế. Đến năm 1997 nhằm làm đầu mối giao lưu với các đại học Phật giáo trong khu vực và trên thế giới, nên đổi thành Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội và Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, đào tạo theo hệ tín chỉ. Giai đoạn đầu cứ 4 năm tuyển sinh một khóa, từ 2006 thì hai năm tuyển sinh một khóa, và mấy năm gần đây thì tuyển sinh hàng năm. Từ một trường Cao cấp Phật học chỉ đào tạo một chuyên khoa Phật học từ khóa 1 đến khóa 5, thì từ khóa 6 (2006) về sau đào tạo đa ngành.
Hiện Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có 13 khoa: khoa Phật giáo Việt Nam (2006), khoa Lịch sử Phật giáo (2006), khoa Triết học Phật giáo (2006), khoa Pali (2006), khoa Trung văn (2006), khoa Phật học Sanskrit (2006), Khoa Hoằng pháp (2009), Khoa Đại học từ xa (2009), khoa Anh văn Phật pháp (2009, khoa Công tác xã hội (2012), khoa Giáo dục mầm non (2015), khoa Y học cổ truyền (2015), khoa Luật học Phật giáo (2020). Đặc biệt, từ năm 2012, theo đề nghị của Ban Thường trực Hội đồng Trị sự, tại công văn số 1171/VPCP-NC ngày 13/10/2011 của Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Trung ương Giáo hội mở thí điểm đào tạo Thạc sĩ (MA) chuyên ngành Phật học tại Học viện Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau một thời gian chuẩn bị, Hội đồng điều hành Học viện đã chính thức khai giảng vào ngày 11/4/2012, khóa thí điểm (2012 - 2014), gồm 155 Tăng Ni sinh theo học. Đến năm 2020 đã và đang đào tạo được 4 khóa, với tổng số 323 học viên. Tiếp theo, năm 2018, tại công văn số 944/TGCP ngày 10/9/2018 của Ban Tôn giáo Chính phủ đã cho phép Học viện đào tạo Tiến sĩ Phật học thí điểm.
Về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học Học viện Phật giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 2 cơ sở: cơ sở 1 đặt tại Thiền viện Vạn Hạnh số 750 đường Nguyễn Kiệm, phường 4, quận Phú Nhuận. Cơ sở này là văn phòng chính và đào tạo hệ sau đại học và cơ sở 2 đặt tại xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đào tạo hệ đại học. Mỗi cơ sở đều có một thư viện với hàng chục ngàn đầu sách phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Riêng cơ sở 2 có ký túc xá cho tăng ni sinh nội trú. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ngài là Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học, rồi Viện trưởng Học viện Phật giáo từ năm 1984 đến năm 2009. Từ năm 2009 đến nay, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh do ngài Pháp chủ Thích Trí Quảng kiêm Viện trưởng.
Bên cạnh sáng lập ba Học viện Phật giáo thì Ngài còn là người đề xuất sáng lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (1989), Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (1990) và Nội san Nghiên cứu Phật học (1990) rồi Tạp chí Nghiên cứu Phật học (1996) với mục đích xiển dương Phật pháp, thực hiện phương châm “Đạo pháp, dân tộc, xã hội chủ nghĩa”, chủ trương “nhập thế, hộ quốc an dân”. Ngài đảm nhiệm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam từ năm 1989 - 2009.
Học viện Phật giáo Việt Nam ở ba miền và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam có sự phát triển vượt bậc với nhiều thành tựu đào tạo và nghiên cứu như hôm nay là nhờ công sức khai phá, đặt nền móng vững chắc của Trưởng lão Hòa thượng trong giai đoạn đầu lúc mới thành lập.
Những đóng góp cho giáo dục Phật giáo Việt Nam
Trước năm 1975, Ngài điều hành Viện Đại học Vạn Hạnh sau năm 1981, bên cạnh thành lập Trường Cao cấp Phật học tại Hà Nội (1981), Thành phố Hồ Chí Minh (1984), Huế để đào tạo tăng, ni sinh, thì Ngài còn sáng lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (1989), Phân viện Nghiên cứu Phật học tại Hà Nội (1990), Nội san Nghiên cứu Phật học (1990) rồi Tạp chí Nghiên cứu Phật học (1996) để nghiên cứu Phật pháp và phiên dịch kinh điển, đây cũng một biểu hiện của giáo dục Phật giáo.
Với giáo dục Phật giáo, trước sau như một, Ngài áp dụng triết lý nhân bản, dân chủ và khai phóng, với phương châm “Duy Tuệ Thị Nghiệp”. Chủ trương giáo dục chính mình và tha nhân bằng hình mẫu cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - nhà đại giáo dục của nhân loại.
Đúng với phương châm “Duy Tuệ Thị Nghiệp”, mọi hoạt động của cơ sở giáo dục Phật giáo đều nhằm mục tiêu cốt yếu là để phát triển trí tuệ. Giáo dục Phật giáo Việt Nam đã xuất phát từ phương pháp giáo dục Từ bi - Trí tuệ và nhân bản của Đức Phật, thừa kế một cách tinh tế và phát triển thuần túy những tinh hoa phương pháp giáo dục Giới - Định - Tuệ. Điển hình tại phân khoa Phật học, sinh viên sẽ được nhận thức rõ trí tuệ là kết quả đạt được của đời sống đạo đức - giữ giới luật, nội tâm được chuyển hóa - thành tựu định, là cơ sở cho tuệ phát sinh. Trí tuệ là kim chỉ nam nhập thế của người xuất gia.
Giáo dục Phật giáo Việt Nam với triết lý giáo dục nhân bản, dân chủ và khai phóng. Triết lý giáo dục nhân bản với chủ trương lấy con người làm căn bản, đối tượng và mục tiêu để hoàn thành sự nghiệp giáo dục. Thừa kế tinh thần và triết lý nhân bản của Đức Phật, giáo dục Phật giáo đề cập và khẳng định con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào khác. Triết lý này chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc. Mọi người đều bình đẳng về giá trị và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục. Điều này giải thích vì sao giáo dục Phật giáo đã tích cực tham gia vào việc định hướng và phát triển giáo dục của đất nước, bảo tồn và phát triển tính độc lập trong giáo dục, góp phần định hướng và phát triển tính truyền thống nhân văn, nhân bản của dân tộc.
Quan điểm giáo dục của Ngài được thể hiện qua những công trình như: Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật; Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi; Đức Phật - nhà đại giáo dục (2004); Đức Phật của chúng ta (2005); Tâm Từ mở ra, khổ đau khép lại (2006); Những gì Đức Phật đã dạy (2007); Chiến thắng ác ma (2009); Đặc biệt ba bài viết được in trong phần phụ lục của sách Trước sự nô lệ của con người (1969) gồm: Đại học Vạn Hạnh một trung tâm Giáo dục ở Sài Gòn, Sự thất bại của giáo dục hiện tại, Một cơ sở giáo dục Phật giáo Việt Nam đối mặt với thế giới hiện tại, đã thể hiện rõ quan điểm giáo dục của Ngài.
Trước tác và dịch thuật kinh tạng Pali
Trước tác:
Sách viết bằng tiếng Anh:
(1) Hsuan T'sang, The Pilgrim and Scholar (Huyền Trang - nhà chiêm bái và học giả, NS.Trí Hải dịch sang tiếng Việt); (2) Fa-Hsien, The Unassuming Pilgrim (Pháp Hiển - nhà chiêm bái khiêm tốn, NS. Trí Hải dịch sang tiếng Việt); (3) Milindapannha And Ngasenabhikhustra - A comparative study (Cư sĩ Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch sang tiếng Việt); (4) The Chinese Madhyama gama and The Pali Majjhima Nikaya (A comparative study) - Luận án Tiến sĩ Phật học (NS. Trí Hải dịch sang tiếng Việt); (5) Some Teachings of Lord Buddha on Peace, Harmony and Humadignity.
Sách viết bằng tiếng Việt:
(1) Phật pháp (đồng tác giả); (2) Đường về xứ Phật (đồng tác giả); (3) Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật; (4) Trước sự nô lệ của con người - con đường thử thách của văn hóa Việt Nam - Tu thư Đại học Vạn Hạnh. 1969, tb 1970; (5) Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (dịch); (6) Sách dạy Pali; (7) Dàn bài Kinh Trung bộ (chưa in); (8) Toát yếu Kinh Trường bộ (chưa in); (9) Toát yếu Kinh Trung bộ (chưa in); (10) Chữ Hiếu trong đạo Phật (đồng tác giả); (11) Hành thiền; (12) Lịch sử Đức Phật Thích Ca; (13) Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi; (14) Chánh pháp và hạnh phúc; (15) Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người (2002); (16) Những mẩu chuyện đạo (2004); (17) Đức Phật - nhà đại giáo dục (2004); (18) Đức Phật của chúng ta (2005); (19) Tâm Từ mở ra, khổ đau khép lại (2006); (20) Những gì Đức Phật đã dạy (2007); (21) Hiểu và hành Chánh pháp (2008); (22) Chiến thắng ác ma (2009).
Dịch thuật kinh tạng Pali sang Việt ngữ:
(1) Trường bộ kinh (2 tập); (2) Trung bộ kinh (3 tập); (3) Tương ưng bộ kinh (5 tập); (4) Tăng chi bộ kinh (5 tập); (5) Tiểu bộ kinh: gồm: Pháp cú (Kinh Lời vàng), Kinh Phật tự thuyết, Kinh Phật thuyết như vầy, Kinh Tập, Trưởng lão Tăng kệ, Trưởng lão Ni kệ, Bổn sanh (2 tập); Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhamma Atthasangaha).
Với những trước tác và dịch thuật đồ sộ như trên, Ngài xứng đáng được tôn vinh là một học giả hàng đầu của học giới ở Việt Nam thời hiện đại.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giáo dục Phật giáo với phương châm “Duy Tuệ Thị Nghiệp” theo tinh thần triết lý nhân bản, dân chủ và khai phóng. Không kể việc Ngài đã giảng dạy và tổ chức giảng thuyết về Phật pháp, chỉ tính riêng việc Ngài đặt nền móng xây dựng và phát triển Viện Đại học Vạn Hạnh từ những ngày đầu non trẻ để trở thành một viện đại học đa ngành, có tiếng trong khu vực và trên thế giới thì đã là một đóng góp rất lớn rồi. Càng đóng góp nhiều hơn khi Ngài là một trong vài người tiên phong góp phần sáng lập Trường Cao cấp Phật học Việt Nam mà sau này là Học viện Phật giáo Việt Nam ở cả ba miền từ chuyên ngành trở thành học viện đa ngành, rồi sáng lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội, Nội san Nghiên cứu Phật học rồi Tạp chí Nghiên cứu Phật học với mục đích xiển dương tư tưởng giáo lý Phật đà phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội.
Về trước tác, Ngài đã cho xuất bản 5 đầu sách Anh ngữ, 22 đầu sách Việt ngữ, dịch 24 tập kinh tạng Pali sang Việt ngữ, mà việc Đại tạng kinh này Ngài là người tiên phong ở nước ta. Đây là một thành tựu lớn mà không phải bất kỳ nhà nghiên cứu nào cũng có thể đạt được. Với những đóng góp đó, Ngài rất xứng đáng được tôn vinh là bậc tùng lâm thạch trụ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thời hiện đại và là nhà giáo dục - văn hóa tư tưởng lớn của Việt Nam thế kỷ XX.