Củng cố và phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc là tài sản quý báu của nhân dân ta. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh to lớn, yếu tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như giai đoạn hiện nay.

Đồn Biên phòng Lũng Cú (Bộ đội Biên phòng Tuyên Quang) phối hợp với lực lượng dân quân tuần tra bảo vệ biên giới. Ảnh: Xuân Hưng

Đồn Biên phòng Lũng Cú (Bộ đội Biên phòng Tuyên Quang) phối hợp với lực lượng dân quân tuần tra bảo vệ biên giới. Ảnh: Xuân Hưng

Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là sự liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, là niềm tin tuyệt đối của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong nhân dân, đoàn kết giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo và không theo tôn giáo, giữa người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước; là tinh thần đoàn kết với nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.

Theo tư tưởng của V.Lê-nin: Giai cấp công nhân phải có tinh thần đoàn kết quốc tế, bởi vì: Giai cấp công nhân ở mọi quốc gia đều có lợi ích chung. Muốn thắng chủ nghĩa tư bản thì phải đoàn kết toàn thế giới, chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Ông phát triển khẩu hiệu của C.Mác - Ph.Ăng-ghen: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại” (1). Đây là bước phát triển mới, mở rộng phạm vi đoàn kết sang cả các dân tộc bị áp bức, không chỉ công nhân. Ông cho rằng, liên minh công - nông là nền tảng của cách mạng; giai cấp công nhân dù tiên phong nhưng không thể làm cách mạng một mình, mà cần phải liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, đặc biệt là nông dân nghèo. Liên minh công - nông là cơ sở xã hội của chính quyền xô-viết và là điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết để giành thắng lợi, Lê-nin chủ trương: Tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc có thể tham gia chống đế quốc, phong kiến. Phương pháp tiến hành là phải mềm dẻo, linh hoạt, biết phân biệt kẻ thù chủ yếu - đế quốc, phong kiến. Lực lượng có thể tranh thủ là tiểu tư sản, trí thức, dân tộc bị áp bức. Đại đoàn kết phải được tổ chức, lãnh đạo bởi Đảng của giai cấp công nhân.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, tuyệt nhiên không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta phải đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ” (2). Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi sâu vào tiềm thức của đảng viên và toàn thể nhân dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, bởi vì nó là biểu hiện "cái tâm trong sáng và lòng nhiệt thành cách mạng" của một chiến sĩ cộng sản, yêu nước, luôn lấy yếu tố đoàn kết toàn dân tộc làm sức mạnh hàng đầu của sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2024 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đề ra mục tiêu nhằm tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để đất nước sớm đạt được những mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành phải thường xuyên tăng cường, mở rộng, phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, chăm lo xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Để thực hiện tốt những nội dung trên, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau đây.

Một là, tăng cường khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và những tầng lớp khác

Đây là vấn đề cơ bản của đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn quá trình chỉ đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng củng cố khối liên minh công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức của dân tộc, trong điều kiện hiện nay xuất hiện các tầng lớp doanh nhân, hộ kinh doanh cá thể. Người chỉ rõ: Đảng và Chính phủ rất mong muốn, rất cố gắng, rất chăm lo xây dựng khối đoàn kết công, nông, trí; đoàn kết lâu dài trong kháng chiến, trong kiến quốc, thực hành xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối” (3). Trong đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo khối liên minh đó, thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức và các tầng lớp khác là nhân tố quyết định để duy trì, củng cố, phát triển liên minh và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững kỷ cương phép nước, thực hiện dân chủ thống nhất trong Đảng

Việc giải quyết hài hòa lợi ích người lao động là nhiệm vụ cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, phải dựa trên cơ sở lợi ích chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động (lợi ích xã hội) làm nền tảng, kết hợp chặt chẽ lợi ích kinh tế (tăng lương, cải thiện điều kiện sống) với lợi ích chính trị (quyền lợi, dân chủ), xóa bỏ bóc lột, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, từ đó nâng cao ý thức giai cấp và năng suất lao động, hướng tới xã hội không còn áp bức. Không giải quyết tốt vấn đề này thì khó có thể xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc một cách vững chắc, lâu dài. Thực tế lịch sử Việt Nam cũng như cách mạng nước ta hơn 90 năm qua đã chứng minh điều đó.

Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc gắn liền với việc phát huy vai trò và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, giữ vững kỷ cương trong đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... ở tất cả các cấp, các ngành; chăm lo phát huy và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân theo pháp luật, tăng cường đồng thuận xã hội; muốn vậy phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình. Đồng thời, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những biểu hiện vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, cũng như những biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động nhân dân, gây rối trật tự công cộng, làm ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, xã hội và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chỉ có thực sự phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa mới có đồng thuận xã hội và đoàn kết thực sự, bền vững.

Ba là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước” (4).

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố đoàn kết các dân tộc, đoàn kết tôn giáo

Đoàn kết các dân tộc, tôn giáo không chỉ để giải quyết vấn đề lực lượng cách mạng, mà liên quan chặt chẽ đến việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển đất nước cường thịnh. Trong điều kiện hiện nay, Đảng và Nhà nước cần có chính sách cụ thể để thực hiện sự bình đẳng, công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt là những vùng gặp nhiều khó khăn, thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số; phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm là, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân

Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc, vai trò lãnh đạo của Đảng là một nguyên tắc hiến định và có tính nguyên tắc, thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vai trò này được quy định cụ thể và có trách nhiệm pháp lý ràng buộc trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đảng đề ra cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách, xác định các mục tiêu và con đường phát triển đất nước, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật của Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất trong toàn hệ thống chính trị. Đảng là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, vì thế phát huy vai trò của Đảng trong tập hợp các lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh công cuộc đổi mới là nhiệm vụ cần thiết trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Đại tá, ThS Hoàng Thành Hậu, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

-------------------------------------

1- V.Lê-nin toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội 2005.

2- Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr214.

3- Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H,2002, tr 510.

4- Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2011, tr 65,66.

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/cung-co-va-phat-huy-suc-manh-tong-hop-cua-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-toc-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi-post498634.html