Cụ tổ nghề hát chèo quê ở đâu?

Tôi cho rằng, nghệ thuật hát chèo đã khởi nguồn từ rất sớm. Hồi nhà Đinh, nhà Tiền Lê, Hậu Lý, nước ta đã có chữ Nôm. Dân gian dùng chữ Nôm phát âm Việt, dùng trong cuộc sống lao động nông nghiệp và sinh hoạt văn hóa dân sinh thường nhật.

I. Nước Nam Việt ta, kể từ thời các vua Hùng dựng nước cho đến ngày nay, kể cũng đã khoảng ngót nghét năm ngàn năm chứ. Một quốc gia có chủ quyền. Nhưng cũng có khi mất chủ quyền. Rồi dũng mãnh đứng lên chiến đấu giành lại chủ quyền. Thăng trầm dâu bể, xót đau và phơi phới tự hào. Anh dũng quật cường và đau thương bi tráng… “Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa /Trong và đục giữa hai bờ suy tưởng” …

Văn chương nghệ thuật, cũng được sinh ra từ cuộc sống bươn bả mưu sinh, để tồn tại và phát triển. Bài ca giữ nước. Bài ca mất nước. Cái này tiêu tán, cái kia hình thành và trỗi dậy, theo quy luật tự nhiên, hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc, trong cộng đồng nhân loại bao la. Mỹ cảm nhân văn, minh triết nhân văn và biện chứng tâm hồn dân tộc theo dòng lịch sử cuộn trào. Bài ca giữ nước ngân nga mãi chưa bao giờ dứt…

Chèo là bộ môn nghệ thuật văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát triển.

Chèo là bộ môn nghệ thuật văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát triển.

II. Thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước, người Lạc Việt đã có nền văn hóa riêng. Tinh hoa văn hóa của người Lạc Việt nước Văn Lang kết tinh ở chiếc trống đồng. Người Việt có chữ viết riêng, tiếng nói riêng, văn hóa văn hiến riêng. Cương vực riêng. Thiết chế chính trị dẫu còn sơ khai, nhưng đã là một quốc gia độc lập có chủ quyền.

Các loại hình nghệ thuật, theo đó mà suy, cũng không thiếu gì thành tựu. Chắc chắn, nó đã ít nhiều hòa nhập với văn hóa phương Bắc. Nên nhớ rằng, nước Văn Lang thời các vua Hùng lên tới Thương Ngô. Khi nhà Thục xâm lược, chiếm đất Văn Lang, lập nước Âu Lạc, thống trị Văn Lang khoảng 30 năm (Theo "Sử ký Tư Mã Thiên"), lãnh thổ nước ta vẫn bao quát cả vùng Thương Ngô trở về phương Nam. Sách "Lễ Ký" của người Tàu, xác nhận đất đai của Trung Nguyên (Trung Quốc) chỉ đến núi Hành Sơn là hết. Từ Hành Sơn trở về Nam, là đất đai của người Bách Việt chúng ta. Vùng Lưỡng Quảng và quần đảo Hải Nam, thực chất là do người Hán hung tợn lấn cướp của ta…

III. Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (938). Năm sau (939), Ngô Quyền tự xưng Vương, đống đô ở Cổ Loa. Bấy giờ thiết chế xã hội và chế độ quan chức còn chưa ra đâu vào đâu. Vậy nên mới có chuyện các sứ quân cát cứ, chia năm sẻ bảy. Thời kỳ Ngô Quyền xưng Vương, vẫn lấy các đơn vị hành chính như ở thời Bắc thuộc.

Đinh Bộ Lĩnh phất cờ nổi dậy. Ông dựa vào sức mạnh quân sự của Trần Lãm, Tướng quân cát cứ ở vùng Kỳ Bố Hải Khẩu (Kỳ Bá), nay thuộc thành phố Thái Bình để tiến binh đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất thiên hạ, lập ra triều Đinh, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt tên nước (quốc hiệu) là Đại Cồ Việt, Đinh Tiên Hoàng đóng đô ở Hoa Lư, nay là thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Sử ta thường viết là Kinh đô Tràng An, Hoa Lư hay Trường Yên… Bây giờ chỉ nói về triều nhà Đinh, thiết chế xã hội, chế độ quan chức, các đơn vị hành chính, hình thế núi sông như thế nào? "Đại Việt sử ký toàn thư" do Ngô Sĩ Liên chủ biên, cũng không thấy chép gì rõ ràng về thể chế chính trị và đơn vị hành chính cụ thể của triều nhà Đinh cả.

Duy chỉ có một chi tiết được biết ở triều Đinh, Lê Hoàn được phong chức Thập đạo Tướng quân, tương đương chức tổng chỉ huy quân đội triều Đinh. Từ đó mà suy ra, chúng ta có thể hiểu rằng, ở triều nhà Đinh ngắn ngủi (tồn tại 13 năm), nước ta được chia ra làm 10 đạo (thập đạo) hoặc châu.

Sách "Hý phường phả lục" của Trạng Nguyên Lương Thế Vinh (1441-1496) sống cùng thời với Ngô Sĩ Liên, chép đại ý: “Bà Phạm Thị Trân hiệu là Huyền Nữ, người Hồng Châu, phong tư mỹ lệ, giỏi về ca hát, múa và làm trò, nổi tiếng trong các hý phường đương thời. Khoảng năm Thái Bình, quan cai quản hạt tiễn đưa bà vào cung. Bà được vua Đinh phong chức Ưu Bà, chuyên dạy múa hát cho cung nữ”. Thời ấy, người ta thường gọi là Hát trò nhời. Về sau, nghệ thuật diễn tấu trò nhời được gọi là hát chèo.

IV. Chúng tôi xin nêu rõ quan điểm về quê hương của cụ Tổ nghề hát chèo Phạm Thị Trân, đại lược như sau:

1. Trạng Nguyên Lương Thế Vinh sống ở thời vua Lê Thánh Tông, cách xa triều vua Đinh khoảng bốn trăm năm. Do vậy, các đơn vị hành chính nước ta đã biến đổi rất nhiều rồi. Mà Hồng Châu cũng không hoàn toàn được hiểu chính xác, cụ thể như thế nào. Theo tôi nghĩ, Hồng Châu ở thời Đinh không chỉ dừng lại ở khu vực Hải Dương, mà nó còn rộng ra cả các tỉnh xung quanh như Thái Bình, Hưng Yên, ngày nay. Vả chăng, nếu nói là “Hý phường” của bà Phạm Thị Trân “nổi tiếng nhất trong các hý phường” thời đó, thì cũng không có căn cứ nào cả. Thời sơ khai ấy, lấy đâu ra nhiều hý phường mà so sánh được?

2. Thời loạn 12 sứ quân, Tướng quân Trần Lãm chiếm lĩnh vùng đất Kỳ Bố (Kỳ Bá) thuộc tỉnh Thái Bình. Trần Lãm (888-976) vốn người Bách Việt, theo tổ tiên sang ta (chứ không phải người Hán). Ông từng làm tướng chỉ huy thủy quân cho Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Thời loạn 12 sứ quân, Trần Lãm (hiệu là Trần Minh Công) kiểm soát toàn bộ vùng đất trù phú nhất vùng ven biển cuối sông Hồng. Ông là Tướng quân hùng mạnh nhất trong 12 sứ quân.

Đinh Bộ Lĩnh lúc đầu chỉ có một đội quân nhỏ, toàn là bạn bè nông dân nghèo. Bộ Lĩnh từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra làm con nuôi Trần Lãm (Thái Bình). Ông được Trần Lãm yêu quý, nhận làm con nuôi. Rất có thể Trần Lãm đã gả con gái của ông cho Đinh Bộ Lĩnh, cho nên ông tin tưởng giao toàn bộ binh quyền cho Đinh Bộ Lĩnh. Như vậy, trên thực tế, Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành người Thái Bình. Ông đã có một bà vợ quê Thái Bình và phong làm Hoàng hậu, trong số 5 bà Hoàng hậu của vua Đinh.

3. Tôi ngờ rằng, bà Phạm Thị Trân (926-976) quê huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình ngày nay. Bà là một cô gái rất giỏi hát xướng, ca múa, đánh trống. Bà đã được Trần Lãm quý mến, cho vào phục vụ hát xướng ở tư dinh của ngài. Hơn thế, với nghề múa hát và đánh trống rất điêu luyện, bà Trân cũng đã phục vụ cho quân đội riêng của Tướng quân Trần Lãm. Sau khi tiếp quản binh lực của Trần Lãm, Đinh Bộ Lĩnh đã tiếp nhận luôn cả người phụ nữ tài giỏi nghề múa hát Phạm Thị Trân. Bà Trân tiếp tục phục vụ quân đội Đinh Bộ Lĩnh, với tư cách là múa hát, đánh trống động viên, thôi thúc binh sĩ của Đinh Bộ Lĩnh dũng cảm xông lên đánh bại lần lượt các sứ quân khác.

Sau chiến thắng, thống nhất thiên hạ, lên ngôi Hoàng Đế, Đinh Tiên Hoàng đã phong chức Ưu bà cho Phạm Thị Trân. Lý do đơn giản vì bà Phạm Thị Trân là người phụ nữ ưu tú, đã có công trong việc giúp quân đội nhà Đinh chiến thắng. Hoàn toàn không có chuyện vua ban chiếu tìm kiếm, rồi quan chức địa phương tiến cử bà Trân vào cung vua Đinh đâu! Lại cũng không có chuyện vua Đinh bỗng dưng mà phong ngay chức Ưu bà cho người phụ nữ dân quê.

4. Trên đất Bắc, hiện có hai địa phương có đền thờ Ưu bà Phạm Thị Trân. Ở Thái Bình, huyện Đông Hưng có hẳn ba ngôi đền thờ bà Tổ nghề hát chèo Phạm Thị Trân.

Như vậy, nghệ thuật hát Chèo, từ dân gian bay vào cung đình, phục vụ cung đình. Cuối cùng, nó lại trở về với dân gian, phục vụ dân gian và cuộc sống lao động nông nghiệp của nông dân vùng quê lúa, bao gồm cả vùng Sơn Nam Hạ. Trấn Sơn Nam Hạ gồm các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình. Nghệ thuật hát chèo đã lan tỏa ra khắp các vùng châu thổ sông Hồng và cả nước, như một trình thức diễn xướng nghệ thuật ca hát dân gian truyền thống, vừa hiện đại, vừa dân dã.

Tôi cho rằng, nghệ thuật hát chèo đã khởi nguồn từ rất sớm. Hồi nhà Đinh, nhà Tiền Lê, Hậu Lý, nước ta đã có chữ Nôm. Dân gian dùng chữ Nôm phát âm Việt, dùng trong cuộc sống lao động nông nghiệp và sinh hoạt văn hóa dân sinh thường nhật. Cụ Lương Thế Vinh nói quê hương của bà Phạm Thị Trân ở Hồng Châu, nhưng chắc cũng không phải là một địa danh hoàn toàn chính xác. Nghĩa là, nó còn có thể bao gồm cả một số vùng lân cận xung quanh, nói chung là khu vực đồng bằng sông Hồng.

Ở khu vực miền Bắc, hiện có hai địa phương có đền thờ bà Tổ nghề hát chèo Phạm Thị Trân.

Thứ nhất, đó chính là đền thờ ở làng Hoàng Quan và các xã Đông Phương, Đông Phong, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình ngày nay. Rất có thể, đây mới chính là quê hương sinh ra bà Phạm Thị Trân. Từ xa xưa, nơi đây đã rất nổi tiếng về hát chèo.

Thứ hai, từ Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, bà Phạm Thị Trân được vua Đinh đưa vào Hoa Lư phục vụ cung đình. Ở Hoa Lư (Ninh Bình), hiện có hai ngôi đền thờ Ưu bà.

Đã từ rất lâu rồi, nhân dân Thái Bình thường tự hào rằng Thái Bình là đất chèo, là cái nôi của hát chèo. Từ đây, đã và đang xuất hiện rất nhiều nghệ sĩ hát chèo nổi tiếng. Phần nhiều các nghệ nhân hát chèo ở nước ta hiện nay, đều là người quê lúa Thái Bình.

Như vậy, từ Đông Hưng (Thái Bình) đến Hoa Lư (Ninh Bình), đó chính là con đường “tơ lụa” của tiếng hát chèo từ dân gian mà bay vào cung đình, rồi từ cung đình nó trở về với dân gian, trở thành một thể loại diễn xướng dân gian truyền thống đặc sắc từ ngàn đời của nước Đại Việt ta!

Hà Nội 2/2024

Nhà nghiên cứu Vũ Bình Lục

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/cu-to-nghe-hat-cheo-que-o-dau--i760449/
Zalo