Khám phá Cụm di tích QG đặc biệt đền chùa, đình Hai Bà Trưng

Tọa lạc tại số 12 phố Hương Viên, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Cụm di tích đền - chùa - đình là nơi thờ Hai Bà Trưng quan trọng nhất Thăng Long - Hà Nội trong suốt nhiều thế kỷ.

Cụm di tích này gồm đền Hai Bà Trưng, đình Đồng Nhân và chùa Viên Minh, đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt vào ngày 31/12/2019.

Đền Hai Bà Trưng

Đền Hai Bà Trưng là đền thờ hai anh hùng đầu tiên của lịch sử chống ngoại xâm vào nửa đầu thế kỷ 1 sau Công nguyên. Người cầm đầu cuộc nổi dậy là hai phụ nữ: Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Theo truyền thuyết, đền Hai Bà Trưng ở Hà Nội được xây dựng từ đời vua Lý Anh Tông (1142) ở bãi Đồng Nhân, bên bờ sông Hồng. Năm Gia Long thứ 18 (1819), do đất bãi bị lở, dân làng Đồng Nhân được vua ban cấp đất tại khu vực Võ Sở, thuộc thôn Hương Viên để xây đền, đình, chùa và làm nơi ở cho một số dân ngoài bãi di cư vào. Một số dân còn lại bám trụ trên đất bãi cũng xây dựng lại một ngôi miếu thờ Hai Bà. Đó là miếu Hai Bà Trưng ở phường Bạch Đằng ngày nay.

 Chính điện đền Hai Bà Trưng. Ảnh: Tttrung / Wikipedia.

Chính điện đền Hai Bà Trưng. Ảnh: Tttrung / Wikipedia.

Đền Hai Bà Trưng nằm trong một quần thể di tích có cảnh quan đẹp, địa hình bằng phẳng, thoáng rộng, diện tích khoảng 9.000m2. Phía trước là khoảng sân rộng có nhiều cây cổ thụ và một hồ nước rộng trong xanh. Phía sau đền là vườn cây ăn quả. Bên trái đền là chùa Viên Minh, bên phải là đình thờ Thành hoàng làng.

Đền Hai Bà Trưng có kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, Tiền bái 7 gian, Ống muống 2 gian, Hậu cung 3 gian 2 dĩ là nơi đặt tượng thờ Hai Bà và tượng 6 nữ tướng dàn hai bên: Lê Chân, Hòa Hoàng, Thiên Nga, Nguyễn Đào Nương, Phùng Thị Chính, Bát Nàn công chúa và Phạm Thị Côn. Tượng đều làm bằng đất, phủ sơn màu.

Sau đền chính, qua một sân gạch nhỏ là dãy nhà khách 7 gian được kết nối với hai hành lang dẫn lên tòa Tiền bái.

Đền Hai Bà Trưng còn bảo lưu được nhiều di vật quý như 27 đạo sắc phong của triều Lê và Nguyễn, 8 pho tượng thờ, 2 tấm bia đá cổ ghi sự tích của Hai Bà, 2 tượng voi bằng gỗ sơn đen, có đôi ngà voi thật, hai bộ kiệu thời Nguyễn cùng nhiều cửa võng, hoành phi, câu đối, hương án có giá trị lịch sử và nghệ thuật.

Đình Đồng Nhân

Đình Đồng Nhân nằm sát bên phải đền Hai Bà Trưng và được xây lùi lại so với mặt tiền của đền là 13m. Đình thờ thần: Cao Sơn đại vương, Quốc vương Thiên tử và thần Đô Hồ đại vương. Theo các cụ cao tuổi ở đây cho biết, ngoài 3 vị thần kể trên trước đây đình còn thờ thần: Chiêu Ứng đại vương và Uyên Tuyền đại vương, là các vị Thủy thần có công phù trợ cho cư dân sinh sống ở vùng ven sông.

Đình Đồng Nhân có quy mô kiến trúc như hiện nay là sản phẩm của lần trùng tu vào năm Bảo Đại, Canh Thìn (1940), bao gồm 5 gian Đại đình và 1 gian Hậu cung, được kết nối với nhau theo kiểu hình chuôi vồ. Trang trí trên kiến trúc ở khối di vật hiện còn, đó là: 17 đạo sắc phong, trong đó có 5 đạo sắc của triều Lê, sắc có niên đại sớm nhất được phong vào năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783); 2 pho tượng phỗng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn; 2 tấm bia đá ghi việc tu bổ đình. Ngoài ra còn một số di vật đồ thờ tế tự khác như: Hạc thờ, khám thờ, cửa võng, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng đã tạo nên sự lộng lẫy, trang trọng nơi điện thờ.

Chùa Viên Minh

Chùa Viên Minh được xây dựng vào năm 1819, có tên chữ Hán là “Viên Minh tự”. Đây tục truyền là tên gọi theo pháp hiệu của Hai Bà Trưng khi được triều đình nhà Lê tôn lên thành Phật. Tên nôm của chùa là chùa Đồng Nhân, cũng có khi được gọi với cái tên thành kính là chùa Hai Bà.

Chùa được tọa lạc bên trái, lùi lại 1m so với đền Hai Bà Trưng. Các hạng mục công trình kiến trúc bao gồm: Tiền đường 5 gian, tòa Ống muống 2 gian, Thượng điện 3 gian, được kết nối với nhau theo kiểu chữ “công”. Phía sau chùa qua một khoảng sân hẹp được bố trí bồn cảnh, các chậu cảnh, là tới gác chuông. Gác chuông là một lầu vuông, được xây dựng năm 1997, ở phía nhà Mẫu, kiến trúc theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Bên trái gác chuông là nhà Tổ, bên phải là lầu Quan Hoàng. Điểm đến giáp giữa hai đầu hồi đền và chùa tạo thành một hành lang hẹp, làm lối ra vào thường ngày của cả đền và chùa.

 Bia di tích cách mạng kháng chiến trong khuôn viên chùa Viên Minh. Ảnh: Báo Quân Đội Nhân Dân.

Bia di tích cách mạng kháng chiến trong khuôn viên chùa Viên Minh. Ảnh: Báo Quân Đội Nhân Dân.

Chùa Viên Minh hiện còn bảo lưu được nhiều di vật có giá trị như: 76 pho tượng thờ, được tạo tác chủ yếu dưới triều Nguyễn, trong đó có 34 pho tượng Phật, 35 pho tượng Mẫu, 7 pho tượng Tổ; 1 quả chuông đồng được đúc vào năm Gia Long 11 (1812); 20 bia đá ghi việc tu bổ chùa và bầu hậu; 21 bức hoành phi, cuốn thư; 18 đôi câu đối; 19 cửa võng được chạm thủng, chạm lộng chủ đề tứ linh, tứ quý...

Bên cạnh giá trị về kiến trúc nghệ thuật, chùa Viên Minh còn là cơ sở hoạt động bí mật của Đảng từ năm 1946 - 1954. Nhà thờ Tổ và Tam bảo của chùa từng là nơi hội họp, cất giấu tài liệu cách mạng. Sư tổ Thích Đàm Thu (thế danh là Nguyễn Thị Khói) là người yêu nước đã có nhiều công lao nuôi giấu, giúp đỡ, bảo vệ an toàn cho cán bộ hoạt động tại chùa. Chùa Viên Minh đã được UBND thành phố Hà Nội gắn biển di tích cách mạng kháng chiến.

Tối 4/3 vừa qua, Sở Du lịch TP Hà Nội đã phối hợp với UBND quận Hai Bà Trưng tổ chức Chương trình du lịch Hà Nội chào 2025 và công bố Quyết định công nhận điểm du lịch Cụm di tích Quốc gia đặc biệt đền - chùa - đình Hai Bà Trưng. Sự kiện được tổ chức trong dịp kỷ niệm 1985 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và công bố Quyết định ghi danh “Lễ hội đền Hai Bà Trưng vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”.

----------------------

Tài liệu tham khảo: Sách Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01 (NXB Hà Nội, 2011)

Thanh Bình

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/kho-tri-thuc/kham-pha-cum-di-tich-qg-dac-biet-den-chua-dinh-hai-ba-trung-2087966.html
Zalo