Còn 'dư' 5,9 triệu tấn tín chỉ carbon do vướng khung pháp lý
Lần đầu tiên Việt Nam đã ký cam kết và bán được 10,3 triệu tấn tín chỉ carbon cho quốc tế, nhưng hiện vẫn còn dư 5,9 triệu tấn CO2 vẫn chưa tìm được đối tác để chuyển giao…
Sáng 21-11, tại tọa đàm về tín chỉ carbon rừng, các chuyên gia và nhà quản lý đã thảo luận giải pháp thúc đẩy cơ chế vận hành thị trường tín chỉ carbon rừng của Việt Nam.
Trong bối cảnh nhiều quốc gia trong khu vực đã đạt tiến bộ đáng kể, Việt Nam vẫn đang đứng trước thách thức về chính sách, quản lý và vận hành, nhưng đồng thời cũng có nhiều cơ hội để phát triển lĩnh vực này.
Thiếu “khung” pháp lý
Ông Hà Công Tuấn, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT cho biết, Việt Nam đang đặt mục tiêu vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon toàn quốc vào năm 2028. Để đạt được mục tiêu trên, ông nhấn mạnh 5 giải pháp cốt lõi, bao gồm nâng cao nhận thức cộng đồng, xây dựng cơ chế vận hành hiệu quả, áp dụng công nghệ giám sát độc lập, thành lập tổ chức điều phối quốc gia và hội nhập tiêu chuẩn quốc tế.
Theo ông, dù Việt Nam có tiềm năng lớn về tín chỉ carbon từ các dự án lâm nghiệp, việc biến tiềm năng này thành hiện thực vẫn còn một hành trình dài.
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ TN-MT), bổ sung đánh giá, Việt Nam đang phát triển chậm do “điểm nghẽn lớn nằm ở khung pháp lý”.
Ông Thọ chỉ ra Luật Lâm nghiệp 2017 chưa làm rõ cơ chế chia sẻ lợi ích từ tín chỉ carbon, khiến việc thu hút đầu tư gặp khó khăn. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh cơ hội lớn từ các dự án rừng trồng. Chỉ tính riêng 2 triệu ha rừng trồng, mỗi ha có thể tạo ra thêm 120.000 tấn CO2 trong 10 năm. Điều này mở ra triển vọng kinh tế lớn nếu khung chính sách được hoàn thiện và chia sẻ lợi ích minh bạch.
Ở một khía cạnh khác, ông Trần Hiếu Minh, Trưởng phòng Khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế - Cục Lâm nghiệp (Bộ NN-PTNT) chia sẻ về những khó khăn trong việc chi trả tín chỉ carbon từ thỏa thuận với Ngân hàng Thế giới (WB).
Đây là chương trình chuyển nhượng tín chỉ carbon đầu tiên của Việt Nam, với khoản thu dự kiến 51,5 triệu USD từ việc chuyển nhượng 10,3 triệu tín chỉ. Tuy nhiên, hiện vẫn còn 5,9 triệu tín chỉ chưa được chuyển giao.
Ông Minh nhấn mạnh: “Tín chỉ carbon cần được xử lý nhanh chóng bởi giá trị của chúng sẽ giảm theo thời gian, ảnh hưởng đến mức giá giao dịch”.
Tính đến cuối năm 2023, khu vực Bắc Trung bộ và Tây Nguyên đã giảm phát thải 15,3 triệu tấn CO2 và dự kiến đạt 16,5 triệu tấn trong năm 2024. Đây là cơ sở để Việt Nam chuyển tín chỉ carbon cho Quỹ Đối tác carbon trong lâm nghiệp (FCPF) hoặc tổ chức đấu giá nhằm thu hút thêm sự quan tâm của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, Nghị định 107 năm 2023 đang được đánh giá và điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế.
Cần minh bạch, kiểm kê độc lập
Thị trường tín chỉ carbon toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ. Ông Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ quản lý rừng bền vững, cho biết tín chỉ carbon được coi là công cụ thiết yếu để thực hiện các cam kết giảm phát thải. Hai thị trường chính là thị trường tự nguyện và thị trường bắt buộc, với mức giá dao động từ 1-200 USD/tín chỉ tùy thuộc vào loại hình dự án và tiêu chuẩn áp dụng.
Tại Việt Nam, Bộ NN-PTNT đang khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn riêng nhằm thu hút đầu tư và vận hành hiệu quả thị trường này, không chỉ giảm phát thải mà còn phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững.
Những thành tựu ban đầu như ký kết thỏa thuận chuyển nhượng tín chỉ carbon với WB, triển khai chi trả tại các tỉnh Bắc Trung bộ hay giảm phát thải từ rừng trồng cho thấy tiềm năng lớn của Việt Nam.
Tuy nhiên, để tiến xa hơn, cần khắc phục điểm yếu về pháp lý, đồng bộ hóa các chính sách và đảm bảo lợi ích của người dân. “Vai trò của Nhà nước nên dừng ở việc hỗ trợ và tạo điều kiện tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp phát triển”, ông Hà Công Tuấn đề xuất.
“Ngay từ bây giờ phải nghĩ tới cơ chế tư vấn và giám sát độc lập, nếu dựa vào Nhà nước là không thành công. Tư vấn đo đếm, giám sát phát thải tới từng doanh nghiệp phải độc lập, phải phi Nhà nước”, ông Hà Công Tuấn nói.
Tóm lại, các giải pháp được đề xuất gồm xây dựng khung pháp lý rõ ràng, vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon quốc gia, ứng dụng công nghệ giám sát độc lập, khuyến khích đầu tư tư nhân và quốc tế, đồng thời đảm bảo lợi ích của người dân và doanh nghiệp thông qua cơ chế chia sẻ minh bạch và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.