Chuyên gia hiến kế để 'giữ chân' đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học người nước ngoài
Theo các chuyên gia, giảm thủ tục hành chính một yếu tố quan trọng giúp Việt Nam thu hút nhân tài và nâng cao chất lượng giáo dục.
Một trong những điểm mới đáng chú ý tại Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đang được lấy ý kiến là “Thí điểm cơ chế miễn thị thực và miễn giấy phép lao động trong thời gian 05 năm cho các chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài có trình độ Tiến sĩ làm quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật tại các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và tổ chức khoa học công nghệ công lập”.
Theo các chuyên gia, đây được xem như là “cú hích” giúp giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà, tuy nhiên, để chính sách này thực sự phát huy hiệu quả, cần hội tụ nhiều điều kiện đi kèm.
Tạo điều kiện thuận lợi để mời chuyên gia, nhà khoa học quốc tế đến Việt Nam giảng dạy
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Lê Như Tiến - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (nay là Ủy ban Văn hóa và Xã hội) của Quốc hội chia sẻ, có sự tham gia của giảng viên, chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại Việt Nam sẽ tạo ra cầu nối quan trọng giữa cơ sở giáo dục trong nước với các cơ sở giáo dục, cộng đồng khoa học trên thế giới, góp phần kiến tạo nền giáo dục Việt Nam chất lượng và có vị thế cao trong cộng đồng quốc tế.
Thực tế cho thấy, giáo dục Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều ngành và lĩnh vực với không ít kết quả tiệm cận hoặc đạt chuẩn trình độ khu vực và thế giới. Tuy vậy, nếu nhìn ở bình diện tổng thể, cơ sở giáo dục đại học trong nước vẫn đang đứng trước yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, gia tăng năng lực cạnh tranh và hội nhập sâu rộng vào không gian học thuật quốc tế với 3 trụ cột: giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao tri thức.
Vì vậy, việc thí điểm cơ chế miễn thị thực và miễn giấy phép lao động trong thời gian 05 năm cho các chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài có trình độ Tiến sĩ làm quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật tại các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và tổ chức khoa học công nghệ công lập là một buớc tiến giúp đơn giản hóa quy trình, tạo điều kiện để các chuyên gia gắn bó lâu dài với Việt Nam, yên tâm công tác mà không phải lo lắng về việc gia hạn liên tục.
Cũng theo ông Tiến, để chính sách này được triển khai hiệu quả và nhanh chóng nhân rộng, cần thực hiện thí điểm trước tại những cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và viện nghiên cứu có đủ năng lực tiếp nhận, quản trị và phát huy giá trị đội ngũ chuyên gia quốc tế.
Trước hết, có thể thí điểm tại các trường đại học trọng điểm quốc gia về kỹ thuật, công nghệ và các lĩnh vực then chốt, mũi nhọn như Đại học Bách khoa Hà Nội; Đại học Đà Nẵng; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh hoặc các trường đại học đào tạo về ngoại ngữ.
Bên cạnh đó, nên lựa chọn những đơn vị có định hướng nghiên cứu mạnh, có kinh nghiệm hợp tác quốc tế, đã và đang triển khai các chương trình liên kết. Đây là các đơn vị đã có kinh nghiệm, mạng lưới hợp tác nên sẽ có khả năng đánh giá, điều chỉnh tạo tiền đề cho việc mở rộng sang các trường đại học khác trong giai đoạn tiếp theo.
Tuy nhiên, các cơ sở đào tạo được thí điểm chính sách này cũng cần tận dụng nguồn lực một cách có chiến lược để tạo giá trị thực chất cho nhà trường, tránh tình trạng mời chuyên gia nước ngoài một cách dàn trải hoặc theo phong trào.
Khi các “rào cản” hành chính được gỡ bỏ, việc mời chuyên gia nước ngoài sẽ trở nên nhanh chóng và linh hoạt hơn, giúp mở rộng mạng lưới hợp tác trong từng lĩnh vực đào tạo. Qua đó, chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học tại đơn vị cũng được tăng cường và phát triển từng bước.

Ảnh minh họa. Website Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng.
Cùng bàn về vấn đề này, theo Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong - nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam chia sẻ, việc thí điểm miễn thị thực và giấy phép lao động trong vòng 5 năm cho các chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài có trình độ tiến sĩ đến Việt Nam là hợp lý bởi khi cơ chế đã thông thoáng, sẽ tạo thuận lợi cho các cơ sở giáo dục “chiêu mộ” nhân tài quốc tế đến giảng dạy. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao tri thức và công nghệ, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng.
Bên cạnh đó, khi có sự tham gia của chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài, đội ngũ giảng viên trong nước cũng sẽ được giao lưu, tiếp cận và vận dụng các chuẩn mực đào tạo quốc tế, từ đó lan tỏa phương pháp giảng dạy hiện đại vào các chương trình chính quy, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo chung của nhà trường.
Ngoài ra, việc thu hút chuyên gia nước ngoài còn góp phần hình thành mạng lưới học thuật liên kết rộng mở giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và các đối tác quốc tế. Nhờ đó, giảng viên và sinh viên có cơ hội tiếp cận và sử dụng hệ thống giáo trình, tài liệu học tập, học liệu điện tử và kho nghiên cứu học thuật hiện đại từ các trường đại học, viện nghiên cứu nước ngoài. Điều này góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy và phục vụ cộng đồng.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong, từ kết quả thu được trong quá trình thí điểm chính sách, đây sẽ trở thành “xương sống” để xây dựng một cơ chế thông thoáng, tạo môi trường thuận lợi thu hút và hình thành đội ngũ nhà khoa học quốc tế tinh hoa, đóng góp cho chiến lược phát triển khoa học - công nghệ quốc gia.
Vì vậy, giai đoạn đầu cần triển khai thí điểm tại một số cơ sở đào tạo đáp ứng đủ các tiêu chí như: Có năng lực quản trị và tiếp nhận đội ngũ chuyên gia quốc tế; có kinh nghiệm hợp tác nước ngoài và triển khai các chương trình liên kết đào tạo, nghiên cứu; có điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ và môi trường làm việc phù hợp.
“Khi các thủ tục hành chính đã được thông thoáng, các cơ sở giáo dục cũng cần chủ động tạo dựng và củng cố mối liên kết với các đối tác quốc tế, đồng thời đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ và quảng bá hình ảnh quốc gia.
Song song với đó, cần mở rộng hợp tác với các trường đại học thuộc nhóm xếp hạng cao trên thế giới, xây dựng các chương trình trao đổi học giả, nghiên cứu chung và liên kết đào tạo theo chuẩn quốc tế”, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong chia sẻ.
Ngoài tuyển dụng, cần “giữ chân” đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học quốc tế
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong, để cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, các cơ sở giáo dục phải đưa ra mức lương, chế độ đãi ngộ và hỗ trợ tương xứng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều trường đại học ở Việt Nam chưa có đủ tiềm lực tài chính để đáp ứng yêu cầu này. Đặc biệt, trường công lập còn bị giới hạn bởi cơ chế phân bổ ngân sách và các quy định ràng buộc về chi tiêu công, dẫn đến khó khăn trong việc chủ động thiết kế chính sách đãi ngộ linh hoạt, hấp dẫn đối với đội ngũ chuyên gia quốc tế.
Ngoài ra, một trong những hạn chế hiện nay là môi trường học thuật và nghiên cứu tại nhiều cơ sở giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu quốc tế. Không ít trường vẫn thiếu các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn, nên khó tạo sức hút đối với đội ngũ chuyên gia và giảng viên nước ngoài.
Vì vậy, để việc tuyển dụng chuyên gia, nhà khoa học người nước ngoài được thuận lợi hơn, cần ưu tiên đầu tư xây dựng hệ sinh thái học thuật chất lượng cao, bao gồm các trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm hiện đại, cùng với việc mở rộng các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút, bởi với những giảng viên nước ngoài có trình độ cao, bên cạnh đãi ngộ, họ cũng rất chú trọng đến môi trường để họ có thể thực sự phát huy hết khả năng nghiên cứu của mình.
Trên thực tế, nhiều quốc gia đã triển khai thành công các mô hình tuyển dụng và giữ chân giảng viên nước ngoài, đặc biệt là tại các trường đại học có định hướng nghiên cứu và hợp tác quốc tế. Đây cũng là căn cứ để Việt Nam học hỏi từ các mô hình này, điều chỉnh chính sách sao cho thu hút và giữ chân các giảng viên nước ngoài như có thêm cơ chế thưởng theo hiệu suất làm việc; hỗ trợ chi phí làm thủ tục, di chuyển và sinh hoạt...
Còn theo ông Lê Như Tiến, một trong những thách thức bên cạnh vấn đề chi phí và đãi ngộ hay thủ tục hành chính là việc đánh giá năng lực chuyên môn của giảng viên đang có sự khác biệt trong hệ thống giáo dục và tiêu chuẩn đánh giá giữa các quốc gia, tuy nhiên chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu hay hướng dẫn để đánh giá việc đáp ứng chuẩn nghề nghiệp đối với giảng viên nước ngoài.
Bên cạnh đó, mức chi trả hiện hành tại nhiều cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam vẫn chưa đủ sức cạnh tranh so với khu vực và thế giới. Vì vậy, bên cạnh yếu tố tài chính, nếu muốn thu hút nguồn chuyên gia là người nước ngoài có chất lượng, các trường cũng cần phải thay đổi văn hóa làm việc, học tập, nghiên cứu khoa học, xây dựng lộ trình phát triển nghề nghiệp, cơ chế trả lương minh bạch sẽ giúp tạo động lực gắn bó lâu dài.
Đồng thời, để tạo điều kiện hơn cho các trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá rõ ràng về trình độ, kinh nghiệm, khả năng giảng dạy của giảng viên nước ngoài, đồng thời công khai rộng rãi để các trường có thể tham khảo và áp dụng. Điều này giúp công tác quản lý tốt hơn mà còn tạo điều kiện để các trường chia sẻ thông tin, xây dựng nhóm nghiên cứu liên cơ sở.