Họ đã đi và chọn…trở về!
Vượt qua những khó khăn về cơ chế, nhiều trí thức trở về đã thành công, đặt nền móng cho khoa học Việt Nam trong nhiều lĩnh vực.
LTS: Thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương đặc biệt nhấn mạnh tính cấp thiết của việc thu hút, trọng dụng chuyên gia, nhà khoa học ngoài nước để xây dựng hệ sinh thái khoa học công nghệ quốc gia. Cụ thể như Nghị quyết 57/2024, Nghị quyết 71/2025 của Bộ Chính trị…
Từ đây, các chính sách mời gọi được đưa ra, một số điểm nghẽn dần được tháo gỡ nhưng vẫn còn không ít những rào cản, đòi hỏi cần giải pháp toàn diện để không chỉ thu hút nhân tài mà còn là giữ chân và tạo môi trường phát triển xứng đáng cho họ.
Nhiều nhà khoa học Việt Nam làm việc ở nước ngoài với điều kiện nghiên cứu thuận lợi, đãi ngộ cao đã khẳng định tên tuổi trên thế giới. Nhưng họ đã chọn trở về, chấp nhận những khó khăn ban đầu để mong muốn góp sức cho đất nước.

Nhiều nhà khoa học đã chọn trở về để góp sức cho đất nước. Ảnh: PA
Trở về vì niềm tin và mong muốn cống hiến
Một trong những Việt kiều thành công nhất khi chọn trở về Việt Nam phải kể đến là GS-TS Võ Văn Tới, nguyên Trưởng bộ môn Kỹ thuật y sinh Trường ĐH Quốc tế (ĐH Quốc gia TP.HCM). Ông là người góp phần đặt nền móng và phát triển ngành kỹ thuật y sinh tại Việt Nam từ năm 2009 đến nay.
Sau hơn 40 năm học tập, nghiên cứu tại Thụy Sĩ và Mỹ, giữ nhiều vị trí quan trọng ở các trường ĐH và viện nghiên cứu lớn. Ông từng được Tổng thống Mỹ George W. Bush đề cử vào HĐQT Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF) và được bổ nhiệm làm giám đốc điều hành VEF năm 2007. Thế nhưng năm 2009, ông quyết định trở về Việt Nam, bắt đầu gây dựng ngành kỹ thuật y sinh từ con số 0.

GS-TS Võ Văn Tới trao đổi công việc chuyên môn cùng các cộng sự. Ảnh: BÍCH NGỌC
Nói về lý do trở về, ông cho biết trước đó, ông từng đưa một phái đoàn giáo sư Mỹ sang khảo sát phát triển kỹ thuật y sinh tại Việt Nam và nhận thấy đất nước có tiềm năng lớn nhưng chưa được hệ thống hóa. Ông cũng từng gửi bốn sinh viên Việt Nam sang ĐH Tufts (Mỹ) học tiến sĩ nhưng không thành công, chính trải nghiệm này thôi thúc ông trở về để trực tiếp đào tạo thế hệ mới.
“Hành trang của tôi là quan niệm “tùy cơ ứng biến” và “có ra sao cũng chẳng sao”. Và tôi đã chọn Trường ĐH Quốc tế làm bến đỗ” - ông nhớ lại.
Chỉ sau ba tháng, ông thành lập bộ môn Kỹ thuật y sinh và sau đó mở rộng đào tạo thạc sĩ (2013), tiến sĩ (2019). Dưới sự dẫn dắt của ông, nhiều thế hệ sinh viên đã giành học bổng quốc tế, giảng viên trẻ đoạt giải thưởng khoa học danh giá trong và ngoài nước. Đến nay, gần 10 trường ĐH tại Việt Nam đã mở ngành này. Năm 2022, GS Tới được Hiệp hội Y khoa và kỹ thuật y sinh quốc tế trao giải thưởng thành tựu trọn đời - ghi nhận đóng góp đặc biệt cho lĩnh vực y sinh toàn cầu.
Động lực lớn nhất với GS Tới là niềm tự hào dân tộc và mong muốn đền ơn đất nước. Người Việt không thua kém ai, chỉ cần có môi trường để phát triển.
Cùng chung quyết tâm đó là PGS-TS Nguyễn Thiện Tống, Trưởng ngành kỹ thuật hàng không Trường ĐH Văn Lang.
Ông từng là thủ khoa ĐH Sydney (Úc) năm 1970, được cấp học bổng tiến sĩ và có cơ hội tham gia nghiên cứu không gian ở Anh, Mỹ với mức thu nhập cao. Nhưng cuối năm 1974, ông cùng gia đình trở về nước và gắn bó với Trường ĐH Kỹ thuật (nay là Trường ĐH Bách khoa - ĐH Quốc gia TP.HCM) và trở thành một trong những người đặt nền móng cho ngành kỹ thuật hàng không Việt Nam.
Không chỉ thế hệ đi trước, nhiều nhà khoa học tài năng đã có tên tuổi và cả những người còn rất trẻ đã lựa chọn trở về. Tiêu biểu như GS Barbara Rose Gottlieb - Trường Y khoa Harvard (Mỹ); GS Lương Văn Hy - GS danh dự tại ĐH Toronto (Canada); GS Senthold Asseng - ĐH Kỹ thuật Munich (Đức)… đã đồng ý đến Việt Nam theo chương trình GS thỉnh giảng của ĐH Quốc gia TP.HCM mới triển khai vào đầu năm 2025.
Bên cạnh đó là các gương mặt trẻ trở về, như TS Cấn Trần Thành Trung (sinh năm 1995), tốt nghiệp tiến sĩ toán học tại Viện Công nghệ California, Mỹ (top 7 trường ĐH tốt nhất thế giới). TS Trung đã từ chối cơ hội làm công việc có thu nhập cao ở Mỹ để trở về giảng dạy tại khoa Công nghệ thông tin (Trường ĐH Khoa học tự nhiên), được cấp 800 triệu đồng kinh phí nghiên cứu về toán lý thuyết ứng dụng trong mật mã và trí tuệ nhân tạo.
TS Trung chia sẻ: “Tôi từng làm việc tại Mỹ với đãi ngộ tốt nhưng không tìm thấy ý nghĩa, đam mê và động lực cống hiến lâu dài. Từ lâu tôi đã mong trở thành giảng viên, cống hiến cho quê hương, phát triển nghiên cứu và truyền đam mê toán học cho học sinh, sinh viên Việt Nam. Vì thế, khi có cơ hội, tôi quyết định trở về”.
Đánh đổi để được đóng góp
Dù nhiều chuyên gia, nhà khoa học có chung quyết tâm trở về nhưng con đường gắn bó lâu dài với nghiên cứu ở trong nước không dễ dàng.
Chia sẻ về hành trình trở về của mình, PGS-TS Nguyễn Thiện Tống cho biết thời của ông, ai đi du học cũng mang tinh thần học để trở về đóng góp cho đất nước dù còn nhiều điều kiện khó khăn phải vượt qua.

PGS.TS Nguyễn Thiện Tống. Ảnh: VLU
Đến năm 1978, ông xây dựng chương trình đào tạo ngành kỹ thuật hàng không theo yêu cầu của hiệu trưởng trường, rồi phải cuối năm 1996 thì bộ môn Kỹ thuật hàng không được thành lập mà chỉ có ông là nhân sự duy nhất. Thế nhưng năm học đó, bộ môn đã tuyển sinh được 30 sinh viên đầu tiên, sau ngành này được mở, thêm chương trình Pháp - Việt và đến nay cả nước đã có gần 3.000 kỹ sư tốt nghiệp, trở thành lực lượng chủ lực trong ngành hàng không dân dụng.
Hơn 100 sinh viên do ông đào tạo được nhận học bổng du học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước phát triển. “Tôi thấy mình có ý nghĩa vì đã góp phần xây dựng ngành hàng không ở trong nước nên tôi không hối tiếc dù trải qua thời gian dài khó khăn” - PGS-TS Tống chia sẻ.
Còn với TSKH Bùi Quốc Bảo, giảng viên Trường ĐH Tôn Đức Thắng, là một trong những trí thức Việt Nam từng học tập, làm việc lâu năm tại Pháp nhưng năm 2016, ông quyết định trở về.

TSKH Bùi Quốc Bảo. Ảnh: NV
Ông chia sẻ lý do lớn nhất thôi thúc ông trở về là tình cảm quê hương và mong muốn đóng góp trực tiếp cho sự phát triển đất nước. Vì với ông, tri thức và kinh nghiệm tích lũy được sẽ có ý nghĩa hơn nếu được áp dụng để giải quyết những vấn đề thực tiễn của Việt Nam.

Thống kê từ Bộ Nội vụ vào tháng 8-2025. Đồ họa: P.ANH
TSKH Bùi Quốc Bảo nhớ lại thời điểm mới về nước, khó khăn lớn nhất ông gặp phải là sự khác biệt về điều kiện nghiên cứu và vận hành. Ở Pháp, hệ thống đã chuẩn hóa, tạo sự chủ động cao cho nhà khoa học; trong khi ở Việt Nam, thủ tục còn rườm rà, mất nhiều thời gian. Tuy vậy, ông coi đó là cơ hội để học cách thích ứng, kết nối và triển khai nghiên cứu phù hợp.
Sau gần 10 năm trở về, điều làm ông tự hào nhất là thấy được tác động trực tiếp của công việc mình làm. Ông đã đào tạo được nhiều thế hệ học trò có tư duy nghiên cứu khoa học; kết nối và triển khai nhiều đề tài nghiên cứu quốc tế với các đối tác; xây dựng một phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu phát triển bền vững, đóng góp cho sự phát triển của cơ quan, TP và đất nước.
GS-TS VÕ VĂN TỚI:
Cần những “ốc đảo” để hiện thực hóa sản phẩm khoa học
Khi xây dựng ngành kỹ thuật y sinh, tôi đặt ra ba mục tiêu. Hai mục tiêu trong đó đã đạt kết quả tốt là đào tạo lớp trẻ và nghiên cứu các chủ đề đặc thù của Việt Nam. Còn mục tiêu thứ ba tôi vẫn đang theo đuổi là trở thành “nhà kinh thầu”, trở thành người biết đưa sản phẩm hàn lâm trong phòng thí nghiệm ra thị trường và ngược lại.
Muốn được như thế, môi trường hàn lâm phải có những “ốc đảo” - nơi giảng viên, nhà khoa học được tự do thực hiện ý tưởng mà không bị trói buộc bởi các quy định hành chính thông thường, miễn là không xâm phạm đến lợi ích và an ninh xã hội. Những “ốc đảo” này phải được trang bị đầy đủ điều kiện của một phòng thí nghiệm nghiên cứu và phát triển, có xưởng chế tạo để sản xuất thử nghiệm thiết bị công nghiệp, cùng đội ngũ nhân lực về kinh doanh để hỗ trợ khởi nghiệp hoặc đàm phán chuyển giao công nghệ.
Nếu thành công, mô hình sẽ được nhân rộng và nếu thất bại, thiệt hại cũng không lớn. Đây chính là mô hình “sandbox” trong hàn lâm mà tôi ước mong thực hiện.