Chuyên gia đề xuất 6 nhóm giải pháp để khơi 'mỏ vàng' điện khí LNG và điện gió

Tuy được đánh giá là có nhiều tiềm năng nhưng điện khí LNG và điện gió ngoài khơi của Việt Nam vẫn phát triển chậm do gặp nhiều vướng mắc.

TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, đưa ra 6 nhóm giải pháp để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi phát triển.

Sửa đổi quy chế tài chính cho tập đoàn năng lượng

Nói về nhóm giải pháp cơ chế quản lý và thực thi, ông Thập cho rằng cần sửa đổi điều lệ tổ chức hoạt động và quy chế tài chính của các tập đoàn kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực năng lượng như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV).

Trong đó, chú trọng quy định về điều kiện thu xếp vốn đối với các dự án không được cấp bảo lãnh Chính phủ, cho phép các tập đoàn được thế chấp tài sản với các chủ thể trong hoạt động mua bán khí - LNG và mua bán điện trong các giao dịch trong chuỗi dự án điện LNG và các hộ tiêu thụ điện.

Hội Dầu khí Việt Nam kiến nghị nâng cấp nghị định về điều lệ tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính của các Tập đoàn Petrovietnam, EVN, TKV tương đương với bộ Luật do Quốc hội ban hành nhằm bảo đảm đủ hành lang pháp lý”, TS. Thập nêu ý kiến.

TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam.

TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam.

Nhóm giải pháp thứ hai là về khung pháp lý và cơ chế chính sách. TS.Thập cho rằng cần thiết sửa đổi và bổ sung một cách đồng bộ các bộ Luật. Đó là Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường (kiểm đếm phát thải khí CO2; quy định, điều kiện quy đổi khí phát thải); Luật Thuế (cơ chế thuế phí đối với đầu tư, vận hành các dự án điện khí LNG, các dự án/công trình điện gió ngoài khơi; thuế xuất khẩu điện; tiêu chuẩn phát thải và khung thuế phí mua bán khí phát thải CO2); Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo; Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Đất đai...

Một nhóm giải pháp nữa là nghiên cứu phát triển thị trường điện theo sát mục tiêu Quy hoạch điện VIII; cần xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, nhà máy điện và các khu công nghiệp/nhà máy có nhu cầu sử dụng điện đủ lớn.

Về nhóm giải pháp tham vấn và học hỏi kinh nghiệm, ông Thập cho rằng cần tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế sâu rộng, học hỏi về mô hình quản trị đầu tư trong lĩnh vực năng lượng, trong đó có lĩnh vực năng điện khí LNG, điện gió ngoài khơi.

Một nhóm giải pháp có ý nghĩa quan trọng không kém là thay đổi nhận thức và tư duy về điện khí LNG và điện gió ngoài khơi. Hội Dầu khí Việt Nam đề xuất điện khí LNG cần được hấp thụ, tiêu thụ bởi các khu công nghiệp hay các nhà máy chế biến và nói rộng hơn là nền kinh tế.

Cuối cùng TS. Nguyễn Quốc Thập kiến nghị Thủ tướng báo cáo Ủy Ban Thường vụ Quốc hội xem xét để ban hành Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội gồm các điều kiện cần thiết và cho phép triển khai song song với quá trình hoàn thiện các bộ Luật theo tinh thần của Nghị quyết chuyên đề đó.

Vướng mắc cơ chế tài chính và thu xếp vốn

Cơ sở để đưa ra đề xuất về 6 nhóm giải pháp trên, theo ông Thập là do trên thực tế, việc điều chỉnh quy hoạch phát triển điện chưa có hướng dẫn trình tự, thủ tục thẩm định, phê duyệt đối với các dự án đầu tư.

Ngoài ra, cơ chế tài chính và thu xếp vốn gặp vướng mắc do vượt quy định về giới hạn tỷ lệ an toàn tín dụng 15% vốn điều lệ khi cho vay theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng. Nguyên nhân là vốn cần thu xếp huy động cho các dự án điện lớn.

Đáng chú ý, TS. Thập chỉ ra hầu hết các dự án điện không thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ. Hiện chưa đủ cơ sở pháp lý thay thế bảo lãnh Chính phủ để có thể vay vốn/thu xếp vốn cho các dự án, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước như Petrovietnam, EVN, TKV.

Chính sách ưu đãi cho đầu tư phát triển các dự án điện, dự án sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới theo Luật Điện lực chậm được ban hành, cũng gây khó khăn cho quá trình phát triển.

Tiến độ dự án đấu nối và truyền tải điện chậm gây khó khăn cho các chủ đầu tư trong việc ra quyết định và tối ưu hiệu quả đầu tư. Việc bàn giao, tiếp nhận tài sản, công trình điện hình thành từ nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước sang ngành điện quản lý vận hành chưa được luật hóa và có hướng dẫn về nguyên tắc chung”, ông Thập nói.

Hiện chưa có hướng dẫn quá trình khảo sát, thăm dò, đo đạc trên biển và giao khu vực biển để đầu tư dự án điện gió ngoài khơi. (Ảnh minh họa)

Hiện chưa có hướng dẫn quá trình khảo sát, thăm dò, đo đạc trên biển và giao khu vực biển để đầu tư dự án điện gió ngoài khơi. (Ảnh minh họa)

Với riêng thị trường điện khí LNG, Luật Giá hiện hành chưa quy định cước phí nhập khẩu, tồn trữ, tái hóa LNG thuộc danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá, nên cước phí này sẽ được các bên liên quan đàm phán và thống nhất, dẫn đến gặp khó khăn trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán khí LNG và điện tương ứng.

Tương tự, với thị trường điện gió ngoài khơi, việc chấp thuận chủ trương và lựa chọn nhà đầu tư cũng nhiều vướng mắc và chưa thống nhất giữa các văn bản quản lý pháp luật hiện hành. Các Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Đất đai đều chưa quy định rõ và cụ thể về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của các cấp đối với các dự án.

Công tác điều tra, khảo sát, thăm dò, đo đạc trên biển và giao khu vực biển để đầu tư dự án điện gió ngoài khơi chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục tại các văn bản pháp lý, chưa có khung chính sách giá, cơ chế giá. Ngoài ra, điều kiện đầu tư dự án điện gió đối với nhà đầu tư nước ngoài chưa rõ ràng.

Chính vì thế, thị trường điện gió ngoài khơi và khí LNG tuy được nhận định có nhiều tiềm năng nhưng phát triển chậm. Hiện mới có 1 dự án điện gió ngoài khơi được sự cho phép của Thủ tướng khảo sát và nghiên cứu tiền khả thi giữa Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam cùng đối tác Singapore.

Còn nhà máy điện khí sử dụng khí khai thác trong nước là 7.900 MW (10 dự án); nhà máy điện khí sử dụng LNG đạt khoảng 22.400 MW (13 dự án).

Theo Quy hoạch Điện VIII, từ nay đến năm 2030, tổng công suất bổ sung từ các dự án điện khí (30.424 MW) và điện gió ngoài khơi (6.000 MW) chiếm khoảng 50% tổng công suất cần bổ sung, có vai trò quan trọng trong việc cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia.

Đồng thời, việc phát triển điện khí và ĐGNK sẽ giúp Việt Nam thực hiện cam kết trung hòa carbon vào năm 2050.

Hạo Nhiên

Nguồn VTC: https://vtcnews.vn/chuyen-gia-de-xuat-6-nhom-giai-phap-de-khoi-mo-vang-dien-khi-lng-va-dien-gio-ar889203.html
Zalo