'Chúng ta cần học hỏi Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore'
Nếu không có những đột phá chính sách, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức vừa phải và khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Tuần Việt Nam lược thuật bài trình bày của PGS.TS Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân tại Tọa đàm Đối thoại chính sách “Định hướng và giải pháp cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045” do Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương và Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức ngày 3/6 vừa qua.
Đổi mới mô hình tăng trưởng để tăng cường nội lực và giảm thiểu các rủi ro từ bên ngoài là điều cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Việt Nam có thể học hỏi sâu sắc từ kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, trong việc hoạch định và thực thi các chiến lược để đạt được tăng trưởng kinh tế cao.
Bài học quan trọng là vai trò định hướng mạnh mẽ của nhà nước trong việc xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn và tạo ra các chính sách hỗ trợ cụ thể về thuế, tín dụng, và môi trường kinh doanh thuận lợi.
Các ngành ưu tiên
Nhà nước chủ động dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, có tiềm năng xuất khẩu với giá trị gia tăng cao. Việc Việt Nam dàn trải hoạt động xuất khẩu trên nhiều ngành nghề, dù có thể mang lại tổng doanh thu xuất khẩu ấn tượng, nhưng lại tiềm ẩn nhiều hạn chế và rủi ro.
Một chiến lược xuất khẩu tập trung vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao sẽ mang lại lợi ích bền vững hơn. Xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng công nghệ, kỹ năng và hàm lượng tri thức cao không chỉ tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên mỗi đơn vị sản phẩm, mà còn giảm đáng kể sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện, từ đó cải thiện cán cân thương mại.

PGS.TS Phạm Thế Anh: Đổi mới mô hình tăng trưởng để tăng cường nội lực và giảm thiểu các rủi ro từ bên ngoài là điều cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
Việt Nam cũng cần tăng cường đầu tư công một cách hiệu quả vào các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao.
Hạn chế về tài khóa và tiền tệ
Về tài khóa, mặc dù tỷ lệ thu ngân sách/GDP tương đối tốt so với khu vực, cơ cấu thu đang có sự dịch chuyển đáng lo ngại khi tỷ trọng thu từ thuế và phí giảm, trong khi các khoản thu kém bền vững như thu từ đất lại tăng lên. Chi ngân sách chưa linh hoạt theo hướng nghịch chu kỳ kinh tế, và đặc biệt là tình trạng giải ngân đầu tư công chậm trễ, với lượng vốn lớn không được sử dụng.
Cơ cấu chi cũng bất hợp lý khi chi thường xuyên quá lớn so với chi đầu tư phát triển. Đồng thời, nghĩa vụ trả nợ có xu hướng tiệm cận ngưỡng cho phép. Điều này cho thấy dư địa tài khóa để tăng dành cho hàng loạt các dự án đầu tư quy mô lớn là rất hạn chế, đòi hỏi phải có nguồn thu mới bền vững và tái cơ cấu chi tiêu hiệu quả hơn.
Về tiền tệ, chính sách đa mục tiêu của Việt Nam, dù đã kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá, vẫn còn nhiều bất cập. Sự can thiệp hành chính vào thị trường tiền tệ còn nặng nề, các công cụ lãi suất điều hành ít tác động thực tế, và việc sử dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng mang nặng tính hành chính.
Tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam vẫn rất cao so với tăng trưởng GDP, dẫn đến tỷ lệ M2/GDP và tín dụng/GDP cao nhất khu vực, tiềm ẩn rủi ro lạm phát, bong bóng giá tài sản, mất giá tiền tệ và hạn chế dư địa nới lỏng.
Lãi suất thực thấp và lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới cũng gây khó khăn cho việc hạ lãi suất thị trường. Thêm vào đó, chất lượng tín dụng và đích đến của dòng vốn còn chưa hiệu quả, tiến độ triển khai các chuẩn mực quốc tế về an toàn hệ thống ngân hàng còn chậm, nợ xấu có nguy cơ gia tăng và khó xử lý.
Tất cả những điều này tạo thêm thách thức cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng. Với những hạn chế tài khóa và tiền tệ hiện hữu, việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực với quy mô lớn đặt ra một thách thức không nhỏ cho Việt Nam.

Ảnh: Phạm Hải
Nếu không có các chính sách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện sự dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi, và khai thác các nguồn thu mới bền vững thay thế cho các nguồn thu kém bền vững hoặc đang làm giảm động lực sản xuất và tiêu dùng, nền kinh tế Việt Nam rất dễ đối mặt với nguy cơ thâm hụt ngân sách cao, bất ổn vĩ mô và thậm chí rơi vào khủng hoảng.
Thêm vào đó, với dư địa chính sách tiền tệ hạn chế và tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, việc cố gắng mở rộng tiền tệ để kích thích đầu tư có thể gây ra lạm phát và bong bóng giá tài sản, tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, khiến dòng vốn không đi vào sản xuất và làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô.
Đánh thuế căn nhà thứ hai – một giải pháp quan trọng
Thứ nhất, Việt Nam cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, tinh giản biên chế, và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi kém hiệu quả sẽ tiết kiệm được một lượng vốn lớn, có thể tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng.
Thứ hai, Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống.
Ở khía cạnh này, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi bởi nhiều lợi ích mà sắc thuế này có thể đem lại. Trước hết, loại thuế này sẽ hạn chế đầu cơ và găm giữ bất động sản, vốn đang tạo ra các "đô thị ma" và tình trạng khan hiếm nguồn cung trên thị trường thứ cấp, đẩy giá nhà đất lên cao một cách phi lý, kéo theo chi phí sinh hoạt và sản xuất gia tăng từ đó làm giảm năng lực cạnh tranh của quốc gia. Khi chi phí sở hữu căn nhà thứ hai tăng lên do thuế, những người găm giữ sẽ có xu hướng sử dụng hiệu quả hơn bằng cách cho thuê hoặc đưa vào sản xuất kinh doanh, hoặc buộc phải bán bớt.
Điều này sẽ làm tăng nguồn cung và góp phần hạ nhiệt giá nhà trên thị trường, giúp thị trường bất động sản trở nên lành mạnh và tránh được sự lãng phí tài nguyên. Bên cạnh đó, thuế bất động sản sẽ tạo ra nguồn thu ổn định để tái đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương như công viên, đường sá, bệnh viện, trường học, từ đó nâng cao chất lượng sống và dịch vụ công.
Hơn nữa, nguồn thu này cũng mở ra cơ hội để Việt Nam cắt giảm các loại thuế khác như thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, những sắc thuế hiện đang làm giảm động lực sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đặc biệt, sắc thuế này sẽ giúp dịch chuyển nguồn lực xã hội khỏi các kênh đầu cơ, hướng dòng vốn vào các lĩnh vực sản xuất thực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và hạn chế sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo trong xã hội.

Thuế bất động sản sẽ tạo ra nguồn thu ổn định để tái đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Ảnh: Hoàng Hà
Thuế thu nhập cá nhân tạo gánh nặng cho người dân
Trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng và nguy cơ các quốc gia như Mỹ áp đặt thuế quan cao, việc sửa đổi/cắt giảm gánh nặng thuế thu nhập cá nhân nên được thực hiện để Việt Nam kích thích tiêu dùng nội địa, qua đó bù đắp một phần sụt giảm từ hoạt động xuất khẩu.
Hiện tại, biểu thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam với các mức thuế suất lũy tiến cao và mức giảm trừ gia cảnh lạc hậu đang tạo gánh nặng lớn lên chi tiêu thiết yếu của người dân, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp.
Mức giảm trừ gia cảnh chậm được điều chỉnh, không theo kịp lạm phát và chi phí sinh hoạt thực tế, cùng với các bậc thuế quá sát nhau, khiến nhiều người dân phải chịu thuế ở mức cao ngay cả khi thu nhập chỉ vừa đủ trang trải cuộc sống. Việc giảm sắc thuế này sẽ tăng thu nhập khả dụng cho người dân, khuyến khích họ chi tiêu nhiều hơn cho hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Điều này không chỉ tạo ra động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế từ phía cầu nội địa mà còn giúp giảm thiểu rủi ro phụ thuộc quá mức vào xuất khẩu, đặc biệt khi các thị trường lớn có thể áp dụng các rào cản thương mại.
Thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa
Để xuất khẩu cao, nhưng giá trị gia tăng thấp, không lớn trở thành một rủi ro cho nền kinh tế trước bối cảnh trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ thương mại, Việt Nam nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Biện pháp này có thể tạo động lực lớn hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu tăng cường sử dụng nguyên liệu, linh kiện và dịch vụ sản xuất trong nước, qua đó thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ. Việc này không chỉ giúp nâng cao giá trị gia tăng nội địa trong sản phẩm xuất khẩu mà còn tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việc tăng tỷ lệ nội địa hóa giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài, đặc biệt là các quốc gia có thể bị áp dụng thuế quan hoặc các biện pháp phòng vệ thương mại từ các đối tác thương mại lớn.
Bằng cách chủ động nguồn cung trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ giảm thiểu rủi ro bị ảnh hưởng bởi các chính sách thương mại quốc tế bất lợi, đảm bảo tính ổn định và bền vững cho hoạt động xuất khẩu.
Do đó, chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo tỷ lệ nội địa hóa sẽ là một công cụ hiệu quả để phát triển công nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các biến động thương mại toàn cầu.
Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
Cuối cùng, Việt Nam hiện đang duy trì một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động trong nhiều lĩnh vực, kể cả những ngành mà sự tham gia của nhà nước là không cần thiết. Thực trạng này đặt ra nhiều thách thức khi nhiều DNNN hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực quốc gia.
Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn thoái vốn khỏi các DNNN không hiệu quả, đặc biệt trong những ngành không phải là trọng tâm chiến lược và không cần thiết có sự tham gia của nhà nước. Nguồn thu từ việc thoái vốn những doanh nghiệp này sẽ được sử dụng để đầu tư vào các dự án trọng điểm quốc gia mang tính động lực, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế và xã hội cao hơn, chẳng hạn như hạ tầng giao thông, năng lượng tái tạo, hoặc các ngành công nghiệp công nghệ cao.
Bên cạnh đó, nguồn thu từ việc thoái vốn cũng có thể được sử dụng để tham gia cùng các doanh nghiệp tư nhân vào các dự án trọng điểm thông qua hợp tác công-tư (PPP). Mô hình này cho phép tận dụng tối đa thế mạnh của cả hai bên: nguồn lực tài chính và định hướng chiến lược của nhà nước kết hợp với kinh nghiệm quản lý, công nghệ và khả năng thực thi hiệu quả của khu vực tư nhân. Điều này không chỉ giúp giảm gánh nặng ngân sách nhà nước mà còn đảm bảo các dự án được triển khai nhanh chóng, hiệu quả và bền vững hơn, mang lại lợi ích lâu dài cho đất nước.