Chứng chỉ tin học, ngoại ngữ có còn là 'rào cản' thăng hạng giáo viên?
Yêu cầu về chứng chỉ tin học và ngoại ngữ đối với việc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức, đặc biệt là giáo viên, đang là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều giáo viên trong thời gian gần đây.
Không có chứng chỉ tin học và ngoại ngữ, giáo viên có được thăng hạng?
Mới đây, sự việc Sở GD&ĐT tỉnh Hà Nam yêu cầu giáo viên THPT phải có các chứng chỉ này để được xét thăng hạng đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều, khi quy định hiện hành của Bộ GD&ĐT lại không đề cập đến điều này.
Theo phản ánh của một số giáo viên THPT tại Hà Nam, Sở GD&ĐT tỉnh này đã yêu cầu các trường rà soát những giáo viên đủ tiêu chuẩn để xét thăng hạng từ hạng III lên hạng II. Đây là một bước quan trọng trong sự nghiệp của mỗi nhà giáo, bởi việc thăng hạng không chỉ mang lại niềm vinh dự mà còn kéo theo sự thay đổi đáng kể về mức lương. Cụ thể, giáo viên THPT hạng III hiện có mức lương dao động từ 5,38 đến 11,65 triệu đồng, trong khi nếu được thăng lên hạng II, mức lương sẽ tăng lên khoảng 9,36 đến 14,93 triệu đồng.
Tuy nhiên, điều khiến nhiều giáo viên bức xúc là yêu cầu từ Sở GD&ĐT Hà Nam về việc phải có chứng chỉ ứng dụng công nghệ thông tin cơ bản (hoặc trình độ tương đương trung cấp tin học, chứng chỉ tin học ứng dụng trình độ B) và chứng chỉ ngoại ngữ bậc 2/6 hoặc tương đương (A2) trước thời hạn 25/4. Nhiều giáo viên cho rằng, yêu cầu này của Sở là "không thỏa đáng" và gây thêm gánh nặng không cần thiết cho họ.
Vậy, liệu giáo viên có thực sự bắt buộc phải có chứng chỉ tin học và ngoại ngữ để được xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hay không?

Ảnh minh họa.
Trao đổi với phóng viên Báo Sức khỏe và Đời sống về vấn đề này, luật sư Nguyễn Hoài Nam từ Công ty luật TNHH Bamboo Star đã đưa ra ý kiến pháp lý dựa trên các quy định hiện hành.
Theo luật sư Nam, căn cứ vào Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT sửa đổi nội dung các Thông tư 01, 02, 03 và 04 năm 2021 của Bộ GD&ĐT, quy định về năng lực ngoại ngữ và tin học của giáo viên đã có sự điều chỉnh quan trọng. Thông tư này nêu rõ: "Có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nghề nghiệp; có khả năng sử dụng ngoại ngữ hoặc sử dụng tiếng dân tộc thiểu số theo yêu cầu vị trí việc làm".
Phân tích quy định này, luật sư Nguyễn Hoài Nam nhấn mạnh rằng, nội dung hướng dẫn hiện tại không có yêu cầu cụ thể về chứng chỉ. Thay vào đó, Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT chỉ tập trung vào khả năng ứng dụng thực tế công nghệ thông tin và khả năng sử dụng ngoại ngữ (hoặc tiếng dân tộc thiểu số) trong công việc của giáo viên, tùy theo yêu cầu của từng vị trí việc làm cụ thể. Như vậy, với nội dung hướng dẫn trên thì không có yêu cầu chứng chỉ, nên việc xét thăng hạng đối với giáo viên không cần đến các chứng chỉ ngoại ngữ, chứng chỉ tin học.
Cách xác định thời gian giữ hạng chức danh nghề nghiệp tương đương của giáo viên
Bên cạnh vấn đề về chứng chỉ, thời gian giữ hạng chức danh nghề nghiệp tương đương cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình xét thăng hạng của giáo viên. Điều 13 Thông tư 13/2024/TT-BGDĐT đã quy định chi tiết về việc xác định thời gian này đối với giáo viên mầm non và phổ thông công lập.
Đối với giáo viên mầm non hạng III (mã số V.07.02.26), thời gian được tính bao gồm thời gian giữ chính hạng III, thời gian giữ các hạng III (mã số V.07.02.05), hạng IV (mã số V.07.02.06) trước đó, thời gian giữ các ngạch giáo viên mầm non chính (mã số 15a.206), ngạch giáo viên mầm non (mã số 15.115), cũng như thời gian khác được cơ quan có thẩm quyền xác định tương đương khi giáo viên được chuyển chức danh nghề nghiệp. Ngoài ra, thời gian công tác theo đúng quy định của pháp luật và có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng được tính vào thời gian giữ hạng.
Tương tự, đối với giáo viên tiểu học hạng III (mã số V.07.03.29), thời gian được tính bao gồm thời gian giữ chính hạng III, thời gian giữ các hạng III (mã số V.07.03.08), hạng IV (mã số V.07.03.09) trước đó, thời gian giữ các ngạch giáo viên tiểu học chính (mã số 15a.204), ngạch giáo viên tiểu học (mã số 15.114), thời gian tương đương được cơ quan có thẩm quyền xác định khi chuyển chức danh, và thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Đối với giáo viên trung học cơ sở hạng III (mã số V.07.04.32), thời gian được tính bao gồm thời gian giữ chính hạng III, thời gian giữ hạng III (mã số V.07.04.12) trước đó, thời gian giữ ngạch giáo viên trung học cơ sở (mã số 15a.202), thời gian tương đương được cơ quan có thẩm quyền xác định khi chuyển chức danh, và thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Một điểm quan trọng cần lưu ý là thời gian được xác định tương đương với thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non, phổ thông hạng III không bao gồm thời gian tập sự và thử việc.
Việc xác định thời gian tương đương với thời gian giữ các hạng II của giáo viên mầm non (mã số V.07.02.25), giáo viên tiểu học (mã số V.07.03.28), giáo viên trung học cơ sở (mã số V.07.04.31), và giáo viên trung học phổ thông (hạng II mã số V.07.05.14, hạng III mã số V.07.05.15) được thực hiện theo các quy định cụ thể tại Thông tư 01/2021/TT-BGDĐT, Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT, Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT và Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT.
Như vậy, theo các quy định hiện hành của Bộ GD&ĐT, yêu cầu về chứng chỉ tin học và ngoại ngữ không còn là điều kiện bắt buộc trong việc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp cho giáo viên. Thay vào đó, các cơ sở giáo dục và sở GD&ĐT cần tập trung đánh giá năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và khả năng sử dụng ngoại ngữ của giáo viên trong quá trình công tác thực tế, phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm và các tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp được quy định.