Chính sách thuế 'hai mặt' của Mỹ
Tổng thống Mỹ Donald Trump đang rơi vào thế 'kẹt' do chính sách thuế. Đó là duy trì việc gia hạn và mở rộng Đạo luật về Việc làm và Cắt giảm thuế (TCJA) năm 2017, thì Chính phủ Mỹ sẽ phải đối mặt với tình trạng nợ công tăng cao và tín nhiệm quốc gia bị suy giảm.
Trong khi đó tham vọng áp đặt mức thuế nhập khẩu cao lên các đối tác thương mại nhằm bù đắp cho ngân sách, lại khiến lạm phát tăng cao và gây phản ứng gay gắt từ doanh nghiệp và người tiêu dùng Mỹ.
Áp lực nợ công và tín nhiệm quốc gia suy giảm
Theo Reuters, dự luật cải cách thuế của chính quyền Tổng thống Donald Trump có trọng tâm là gia hạn và mở rộng Đạo luật TCJA năm 2017 (dự kiến sẽ hết hiệu lực vào năm 2025) - vốn là thành tựu lập pháp nổi bật của ông Donald Trump trong nhiệm kỳ đầu. Và chính quyền Donald Trump muốn gia hạn vĩnh viễn các khoản cắt giảm thuế trong TCJA.
Nhưng theo tính toán của Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO), điều này sẽ tiêu tốn khoảng 4.600 tỷ USD trong vòng 10 năm tới. Bên cạnh đó, chính quyền Mỹ cũng muốn mở rộng các khoản cắt giảm thuế, ví dụ như xóa bỏ thuế đối với tiền tip và tiền làm thêm giờ - hai cam kết trong chiến dịch tranh cử của ông Donald Trump, đồng thời tăng chi tiêu quốc phòng và cấp thêm ngân sách cho các biện pháp siết chặt kiểm soát biên giới.
Song để có tiền bù vào những khoản này, chính quyền Tổng thống Donald Trump đề xuất cắt giảm mạnh ngân sách dành cho các chương trình an sinh xã hội như Medicaid (chương trình bảo hiểm y tế dành cho người thu nhập thấp), Medicare (chương trình bảo hiểm y tế liên bang dành cho người cao tuổi và một số nhóm đối tượng đặc biệt), và Chương trình Hỗ trợ dinh dưỡng bổ sung (SNAP).
Theo The New York Times, “miếng bánh” giảm thuế luôn hấp dẫn với người Mỹ, và chiến lược này đã được ông Donald Trump áp dụng thành công trong nhiệm kỳ đầu tiên. Tuy nhiên, ở nhiệm kỳ này đề xuất cắt giảm thuế của ông lại vấp phải nhiều ý kiến trái chiều.
Những người ủng hộ ca ngợi dự luật vì mang lại lợi ích cho tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ tầng lớp trung lưu; trong khi số khác phản đối cho rằng những cải cách thuế có thể làm nợ công ngày càng phình to, và tước đi cơ hội nhận hỗ trợ y tế, thực phẩm của hàng triệu người dân Mỹ.
Nếu được thông qua, dự luật cắt giảm thuế sẽ khiến khoảng 8,6 triệu người mất quyền tiếp cận Medicaid. Chính vì thế, một số thành viên Đảng Cộng hòa không đồng tình, cho rằng điều này sẽ tác động tiêu cực đến lá phiếu của cử tri Mỹ trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 2026, khi quyền kiểm soát lưỡng viện Quốc hội sẽ được quyết định lại.
Và theo các chuyên gia phân tích, dự luật có thể làm nợ công của Mỹ tăng thêm từ 3.000 - 5.000 tỷ USD trong thập kỷ tới. Hiện tại, nợ công của Mỹ đã đạt mức 36.200 tỷ USD, và được dự báo sẽ lên tới 134% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2035. Đây là lý do khiến Moody’s - cơ quan xếp hạng tín dụng cuối cùng còn giữ mức tín nhiệm cao với Mỹ, đã hạ bậc xếp hạng của nước này vào hôm 16-5.
Mỹ có thể áp thuế quan cao trong bao lâu?
Chỉ hai ngày sau khi Moody’s hạ mức xếp hạng tín nhiệm, ngày 18-5, trong cuộc trả lời phỏng vấn kênh truyền hình NBC News, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent đã bác bỏ tầm quan trọng của việc bị hạ tín nhiệm nói trên, cho rằng dự luật sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đủ mạnh để vượt qua gánh nặng nợ.
Giới phân tích cũng đặt ra câu hỏi, liệu Nhà Trắng có thể “lên gân” với chính sách thuế quan trong bao lâu khi đối mặt với những áp lực từ chính trong nước?
Trái ngược với những phát ngôn có phần “dịu giọng” của Tổng thống Donald Trump về chính sách áp đặt thuế quan lên các đối tác thương mại trong những ngày gần đây, đặc biệt là sau khi Mỹ - Trung tạm đạt thỏa thuận về giảm mức thuế quan áp đặt lên nhau, thì trong cuộc trả lời phỏng vấn hôm 18-5, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent lại có những phát ngôn tỏ ra cứng rắn: “Các quốc gia sẽ nhận được thư từ vị bộ trưởng, trong thư nêu rõ mức thuế tối đa đó nếu “họ” (các nước) không đàm phán một cách thiện chí. Nếu họ không muốn đàm phán thì thuế quan sẽ quay trở lại mức ngày 2-4”.
Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cảnh báo, việc Moody’s hạ tín nhiệm của Mỹ là dấu hiệu rõ ràng cho thấy quốc gia này đang nợ quá nhiều và cần có hành động điều chỉnh, hoặc tăng thu, hoặc giảm chi tiêu. Bởi quyết định hạ tín nhiệm của Moody’s diễn ra giữa lúc nền kinh tế Mỹ vẫn bất ổn vì các chính sách thuế quan của ông Donald Trump, vốn đã tác động mạnh đến thị trường toàn cầu. Trong khi đó, các dự báo đều cho thấy thâm hụt ngân sách và nợ công của Mỹ sẽ tiếp tục tăng trong ít nhất 10 năm tới.
Với tình hình này, kế hoạch cắt giảm thuế sâu rộng của Tổng thống Donald Trump có thể sẽ khiến Mỹ đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ công nghiêm trọng. Nhà kinh tế học người Ấn Độ Raghuram Rajan nhận định, chính sách cắt giảm thuế mà Washington đang áp dụng, có thể giúp tăng thu nhập của tầng lớp lao động trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài chúng sẽ đẩy nền kinh tế Mỹ vào hố sâu nguy hiểm của nợ công.
Có thể thấy, chính quyền Tổng thống Trump đang xem thuế quan là một giải pháp để bù đắp cho ngân sách. Ông Trump coi thuế quan là một biện pháp hữu hiệu để giảm hoặc thậm chí xóa bỏ tình trạng thâm hụt thương mại của Mỹ với các đối tác thương mại của nước này. Tuy nhiên, ông cũng coi việc thu thuế quan - nguồn thu ngân sách chủ yếu của Chính phủ liên bang Mỹ, là một nguồn thu quan trọng để có thể cắt giảm các loại thuế trong nước.
Điều này càng tỏ ra có cơ sở khi hãng tin Bloomberg cho biết, dữ liệu được lấy từ báo cáo hàng ngày của Bộ Tài chính Mỹ cho thấy thu thuế quan của Mỹ tăng vọt hơn 60% trong tháng 4, đạt ít nhất 15 tỷ USD, và việc thu thuế quan hàng ngày đối với những đơn vị nộp thuế ngay khi hàng được nhập khẩu vào Mỹ cũng tăng khoảng 40% trong tháng 4 so với cùng kỳ tháng trước.
Số tiền thuế quan mà nhà chức trách Mỹ đã thu được trong tháng này bao gồm, thuế quan 25% áp lên thép và nhôm nhập khẩu có hiệu lực từ ngày 12-3.
Phản ứng của doanh nghiệp và người tiêu dùng Mỹ
Hôm 21-5, 12 tiểu bang Mỹ đã yêu cầu tòa án liên bang dừng áp dụng thuế quan “Ngày giải phóng” - tức ngày 2-4 khi ông Trump tuyên bố áp thuế quan lên các đối tác - với lý do rằng ông đã vượt quá thẩm quyền khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia để áp đặt thuế quan lên các đối tác.
Một hội đồng gồm 3 thẩm phán của Tòa án Thương mại quốc tế (Manhattan, tiểu bang New York), đã nghe các lập luận của các bên trong vụ kiện do các tổng chưởng lý Đảng Dân chủ của các tiểu bang New York, Illinois, Oregon và 9 tiểu bang khác của Mỹ đệ trình.
Đây là vụ kiện có phạm vi rộng hơn so với vụ kiện pháp lý trước đó, do một nhóm doanh nghiệp nhỏ đệ trình lên tòa án. Các tiểu bang cáo buộc Tổng thống Trump đã hiểu sai nghiêm trọng Đạo luật Quyền hạn kinh tế khẩn cấp quốc tế (IEEPA) để biện minh cho việc áp thuế quan, coi đó là “tờ séc trắng” để điều chỉnh thương mại.
Chính sách áp thuế quan của Tổng thống Trump cũng vấp phải sự phản ứng từ chính doanh nghệp và người tiêu dùng Mỹ. Mới đây, Walmart - gã khổng lồ ngành bán lẻ Mỹ, đã quyết định tăng giá bán các sản phẩm vì lý do thuế nhập khẩu quá cao.
Đáp lại, Tổng thống Trump gửi thông điệp trên mạng xã hội gửi đến CEO Walmart, rằng không được tăng giá, cần phải chia sẻ một phần gánh nặng thuế quan với Chính phủ. Tính đến nay đã có 8 vụ kiện đã được đệ trình, 6 trong số đó đang được Tòa án Thương mại quốc tế thụ lý.
Có thể thấy, bên cạnh áp lực trong nước, số tiền mà Chính phủ Mỹ thu được từ thuế quan chỉ là “muối bỏ bể” so với thâm hụt ngân sách liên bang. Trong mấy tháng đầu của năm tài khóa này, Chính phủ Mỹ thâm hụt ngân sách 1.310 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Tiền trả lãi nợ công tăng lên, cùng với các chương trình liên bang tốn kém như Medicare và Social Security, tiếp tục chiếm một phần lớn trong sự gia tăng khối nợ công của Mỹ.
Viện Tài chính Quốc tế (IIF) đã tỏ ra nghi ngờ khả năng các khoản thu từ thuế quan có thể bù đắp cho phần ngân sách thất thu, đồng thời cảnh báo rằng việc áp thêm thuế nhập khẩu có thể phản tác dụng nếu làm giảm nguồn thu và đẩy lạm phát tăng cao.
Theo ước tính của IIF, nếu không có nguồn thu bù đắp, việc gia hạn vĩnh viễn các khoản cắt giảm thuế sẽ khiến tổng nợ công của Mỹ tăng từ mức tương đương 100% GDP hiện nay lên 130% GDP vào năm 2034, tương đương khoản vay thêm 7.200 tỷ USD trong vòng 10 năm tới. Lộ trình nợ này là lý do chính khiến Chính phủ Mỹ nỗ lực tìm kiếm các nguồn thu mới, bao gồm cả việc áp thuế quan nhập khẩu mạnh tay.
Tuy nhiên, IIF cho rằng ngay cả khi tính cả nguồn thu từ thuế quan và tiết kiệm ngân sách nhờ kế hoạch cắt giảm bộ máy nhà nước mà tỷ phú Elon Musk hậu thuẫn, nước Mỹ cũng chỉ huy động được chưa đến một nửa số tiền cần thiết, bất chấp tuyên bố từ chính quyền Tổng thống Trump rằng có thể thu về 700 tỷ USD mỗi năm.
Giới phân tích cho rằng, “cuộc chiến thuế quan” (theo cách gọi của giới truyền thông) mà Mỹ phát động sẽ không bao giờ đưa đến kết quả “win - win” (cùng thắng), mà sẽ là “if the fish dies, the net breaks” (cá chết, lưới rách), nhất là khi ngân sách liên bang của Mỹ luôn trong tình trạng “to be in the red” (thu không đủ chi).
Có chăng, chính sách thuế quan và những thỏa thuận đạt được với các đối tác thương mại (sau khi Mỹ gây áp lực), sẽ đem đến “cảm giác chiến thắng” cho Tổng thống Donald Trump (bằng chính sách thuế quan), và lấy phiếu cử tri tầng lớp trung lưu (bằng chính sách giảm thuế trong nước) dành cho Đảng Cộng hòa trước cuộc đua bầu cử giữa nhiệm kỳ sẽ diễn ra vào năm 2026.
Thực tế, không riêng gì Walmart, kể từ sau động thái tuyên bố áp thuế quan, chính quyền Tổng thống Trump đối mặt với làn sóng thách thức pháp lý đến từ các doanh nghiệp Mỹ, chính quyền tiểu bang và các nhóm vận động.