Chính sách đã có những bước đột phá, nhưng vẫn 'chưa thực sự đầy đủ, đặc biệt ở khía cạnh cầu'
Các chính sách thường tập trung vào 'bên cung' - hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, công nghệ, nguồn lực, nhưng 'bên cầu' - là thị trường, nơi doanh nghiệp và người tiêu dùng tương tác – lại chưa được chú trọng đúng mức…

Tạo động lực và điều kiện để thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số là một chiến lược quan trọng. Ảnh minh họa
Theo ông Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh, trong sáu tháng qua, Việt Nam đã chứng kiến làn sóng cải cách sâu rộng, đánh dấu những bước đi mang tính cách mạng trong hoạch định chính sách phát triển đất nước.
Việt Nam đã ban hành “bộ tứ trụ cột” bao gồm những Nghị quyết quan trọng. Đó là Nghị quyết 57-NQ/TW về đổi mới sáng tạo, Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế, Nghị quyết 66-NQ/TW về hoàn thiện pháp luật và Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân của Bộ Chính trị.
CHÍNH SÁCH THƯỜNG TẬP TRUNG VÀO “BÊN CUNG”, CHƯA CHÚ TRỌNG ĐÚNG MỨC ĐẾN “BÊN CẦU”
Ngoài những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về thuế, phí, nguồn vốn, các Nghị quyết trụ cột còn cho thấy dấu hiệu rõ ràng của sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy lãnh đạo chính phủ Việt Nam, từ hỗ trợ đơn thuần sang chủ động kiến tạo hệ sinh thái đổi mới, chuyển đổi số và tăng trưởng kinh tế dựa trên tri thức.
Nghị quyết 68 đã sự khẳng định khu vực tư nhân là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo và phát triển đất nước. Phân tích cụ thể hơn về Nghị quyết 68, ông đã chỉ ra các nhóm chính sách cốt lõi. Đầu tiên là tạo môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh và thuận lợi nhất có thể. Đây là nền tảng để các doanh nghiệp có thể phát triển dựa trên thực lực, sáng tạo và hiệu quả, thay vì phụ thuộc vào quan hệ hay cơ chế xin – cho.
Bên cạnh đó, Nghị quyết 68 có những chính sách nhằm cải thiện tương tác giữa nhà nước và doanh nghiệp theo hướng phục vụ thay vì kiểm soát. Điều này đồng nghĩa với việc giảm thiểu sự can thiệp hành chính không cần thiết, tránh hình sự hóa các hoạt động kinh doanh, và giảm chi phí giao dịch – những rào cản lâu nay đối với khu vực tư nhân.
“Chúng ta thường tập trung vào bên cung, tức là hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, công nghệ, nguồn lực, lao động kỹ năng cao, thậm chí thu hút nhân tài. Nhưng bên cầu – tức là thị trường, nơi doanh nghiệp và người tiêu dùng tương tác – lại chưa được chú trọng đúng mức”, ông Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh.
Các chính sách hỗ trợ toàn diện, từ hộ kinh doanh, startup, doanh nghiệp vừa và nhỏ đến những doanh nghiệp tiên phong. Tất cả đều được đặt trong một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, có cơ chế khuyến khích rõ ràng và thiết thực.
Đáng chú ý, cách thức sử dụng ngân sách nhà nước cũng chuyển đổi theo hướng linh hoạt, chấp nhận rủi ro . “Đây là một tư duy mới nhằm khuyến khích các sáng kiến công nghệ, hỗ trợ startup, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như những tập đoàn dẫn dắt thị trường”, ông Võ Trí Thành nói.
Tuy nhiên, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh cũng đã nhấn mạnh một vấn đề, đó là dù các chính sách đã có những bước đột phá, nhưng vẫn “chưa thực sự đầy đủ, đặc biệt ở khía cạnh cầu”. Theo ông giải thích, khía cạnh cầu chính là việc tạo động lực và điều kiện để thúc đẩy ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số. “Chúng ta thường tập trung vào bên cung, tức là hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, công nghệ, nguồn lực, lao động kỹ năng cao, thậm chí thu hút nhân tài. Nhưng bên cầu – tức là thị trường, nơi doanh nghiệp và người tiêu dùng tương tác – lại chưa được chú trọng đúng mức”, ông nói.
ĐỀ XUẤT BỐN NHÓM CHÍNH SÁCH TẠO ĐỘNG LỰC CHO THỊ TRƯỜNG
Chuyên gia cũng đã chia sẻ những đề xuất, sáng kiến để tạo áp lực và động lực từ phía cầu nhằm thúc đẩy sự phát triển của bên cung. Theo đó, có bốn nhóm chính sách từ phía cầu cần tập trung.
Nhóm chính sách thứ nhất là tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh, bình đẳng và minh bạch nhất có thể. Theo ông, cạnh tranh là động lực cốt lõi thúc đẩy nhu cầu công nghệ.
Trong thế giới số, cạnh tranh không chỉ diễn ra trong thế giới thực với các sản phẩm, dịch vụ hay tài chính, mà còn trong không gian số với các nền tảng phức tạp. Việc xử lý tranh chấp trong thế giới số khó khăn hơn nhiều so với kinh doanh truyền thống, do liên quan đến dữ liệu, quyền riêng tư, sở hữu cá nhân và tổ chức, cũng như sự dịch chuyển dữ liệu xuyên biên giới.

Ông Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh, phát biểu tại Hội thảo “Gỡ nút thắt, tạo động lực để làm chủ công nghệ và phát triển đột phá”
Hơn nữa, trong môi trường số, hiện tượng “người thắng có tất cả” khiến các doanh nghiệp lớn dễ lấn át doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo thách thức cho việc duy trì môi trường cạnh tranh công bằng. Do đó, ông Võ Trí Thành nhấn mạnh xây dựng thể chế, pháp luật và cách điều hành kinh tế phù hợp là yếu tố sống còn.
Nhóm chính sách thứ hai là mở rộng thị trường để kích cầu. Một trong những cách hiệu quả là thông qua mua sắm công. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ nằm ở quy trình mà còn ở việc tạo lợi thế nhờ quy mô. Ông cũng đề cập đến trường hợp xây dựng thị trường công nghệ số cho các cơ quan chính phủ, và chương trình này đặc biệt muốn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhiều cơ quan bắt đầu triển khai, nhưng khi đi vào thực tế, chính sách này vướng phải các quy định về đấu thầu và chi tiêu công, vì thế hiệu quả không như mong đợi. Do đó, theo ông, các chính sách đặt hàng của chính phủ cần tập trung vào quy mô và thực chất để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư và phát triển.
Nhóm chính sách thứ ba là kết nối cung và cầu, đặc biệt hỗ trợ startup và doanh nghiệp vừa và nhỏ. “Nhiều startup có ý tưởng sáng tạo nhưng thiếu thị trường. Ngoài việc đặt hàng công, cần có sự hỗ trợ từ những người đã thành công trên thị trường, như các mentor, quỹ đầu tư mạo hiểm hay các nhà đầu tư thiên thần”, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh nói.
Việc xây dựng các đại học khởi nghiệp không chỉ đáp ứng tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW về hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia mà còn khuyến khích doanh nghiệp tham gia trực tiếp, từ đầu tư đến hợp tác với các trường để thúc đẩy phát triển công nghệ và sáng tạo
Những đối tượng này không chỉ hiểu giá trị công nghệ mà còn nắm bắt tốc độ tăng trưởng và nhu cầu thị trường. Hỗ trợ các startup, doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các quỹ đầu tư chuyên nghiệp, cơ chế thị trường linh hoạt và chấp nhận rủi ro sẽ tạo động lực mạnh mẽ để kết nối cung và cầu.
Nhóm chính sách thứ tư là xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, trong đó các trường đại học đóng vai trò quan trọng. Gần đây, mô hình “đại học khởi nghiệp” đang được TP.HCM khuyến khích, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và kết nối giữa giáo dục, nghiên cứu và thực tiễn kinh tế - xã hội. TP.HCM Phan Văn Mãi đã đề xuất chọn 5-6 trường đại học (bao gồm cả trường công lập và ngoài công lập) để thí điểm xây dựng mô hình “đại học khởi nghiệp”.
“Đây là mô hình đại học cấp cao, không chỉ đào tạo hay nghiên cứu mà còn thương mại hóa nghiên cứu, tạo hệ sinh thái cho startup và mang lại giá trị thực cho tăng trưởng kinh tế”, ông Võ Trí Thành nói. Trên thế giới, các trường như Massachusetts Institute of Technology (Viện Công nghệ Massachusetts - MIT) đã tạo ra hàng chục tỷ USD từ các startup.
Tại Việt Nam, việc xây dựng các đại học khởi nghiệp không chỉ đáp ứng tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW về hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia mà còn khuyến khích doanh nghiệp tham gia trực tiếp, từ đầu tư đến hợp tác với các trường để thúc đẩy phát triển công nghệ và sáng tạo. Và đây cũng là cách để Việt Nam tạo ra các "MIT bản địa", nuôi dưỡng doanh nghiệp công nghệ tỷ đô trong tương lai.
Quan trọng hơn, điều cốt lõi trong toàn bộ chiến lược cải cách hiện nay không chỉ là công nghệ, tăng trưởng hay lợi nhuận, mà là nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của người dân.
“Dù chúng ta tập trung vào công nghệ, tăng trưởng và lợi nhuận, mục tiêu cuối cùng vẫn là hạnh phúc của con người. Công nghệ và đổi mới sáng tạo phải phục vụ cho cuộc sống tốt đẹp hơn”, chuyên gia nhấn mạnh.