Chiến lược và nghệ thuật quân sự đặc sắc của Chiến dịch Tây Nguyên
Diễn ra từ 4/3 đến 3/4/1975, Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 thắng lợi vang dội, có ý nghĩa to lớn cả về chính trị và quân sự.
Hoạt động nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên được xem là nghệ thuật đặc sắc trong kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Đòn chiến lược then chốt
Xác định Chiến dịch Tây Nguyên là đòn chiến lược then chốt mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã họp bàn kế hoạch thực hiện và các lực lượng tham gia chiến dịch. Phương châm và tư tưởng chỉ đạo của Chiến dịch Tây Nguyên được xác định là "Mạnh bạo, chắc thắng, chủ động, cơ động, linh hoạt, bí mật, bất ngờ."
Theo quyết định của Bộ Chính trị, ngày 5/2/1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam được cử vào mặt trận Tây Nguyên để trực tiếp theo dõi và chỉ đạo chiến dịch.
Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên gồm các đồng chí: Tư lệnh: Trung tướng Hoàng Minh Thảo; Chính ủy: Đại tá Đặng Vũ Hiệp; Phó Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Lăng, Đại tá Phan Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang; Phó Chính ủy: Đại tá Phí Triệu Hàm.
Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San - Phó Bí thư Khu ủy và đồng chí Nguyễn Văn Cần, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk cùng một số cán bộ đại diện các ngành ở bên cạnh Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch, để chỉ đạo trực tiếp ba tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk huy động mọi khả năng hiện có của địa phương để phục vụ Chiến dịch Tây Nguyên.
Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì cũng được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.

Từ ngày 17 đến ngày 19/2/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên họp mở rộng, thảo luận cụ thể từng vấn đề về so sánh lực lượng, bố trí thế trận và cách đánh. Theo phân tích, tình hình địch, ta trên chiến trường Tây Nguyên đang phát triển theo xu hướng có lợi cho ta. Đây là điều kiện thuận lợi để quân đội ta tiến hành chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, giành thắng lợi lớn ở Nam Tây Nguyên.
Hội nghị quyết định tập trung lực lượng mạnh, chủ yếu vào Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Thuần Mẫn, trong đó, mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuột. Sau đó, phát triển tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Cheo Reo, Gia Nghĩa và các chi khu, quận lỵ trong ba tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức; trong đó, Đắk Lắk là trọng điểm.
Cách đánh Chiến dịch Tây Nguyên là bí mật triển khai lực lượng, cắt các trục đường 19, 14, 21 ngăn chặn lực lượng ứng cứu của địch; đánh Đức Lập và Thuần Mẫn để kéo địch ở Buôn Ma Thuột ra tiêu diệt, làm cho Buôn Ma Thuột sơ hở, cô lập. Dùng lực lượng binh chủng hợp thành tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Buôn Ma Thuột.

Các chiến sỹ đoàn Pleime (Gia Lai) thảo luận phương án đánh địch. (Ảnh: Phú Tuấn/TTXVN)
Bộ Tư lệnh chiến dịch dự kiến kế hoạch tác chiến theo hai phương án. Phương án thứ nhất là đánh địch khi chúng chưa tăng cường phòng ngự dự phòng. Phương án thứ hai là địch đã tăng cường phòng ngự dự phòng.
Bộ Tư lệnh chiến dịch nêu rõ trong công tác chuẩn bị lấy phương án thứ hai làm cơ bản, nhưng trong thực hiện phải cố gắng tạo thời cơ đánh địch theo phương án thứ nhất.
Nghệ thuật quân sự độc đáo
Xét trên phương diện nghệ thuật quân sự, Chiến dịch Tây Nguyên có bước phát triển rất cao, nổi bật nhất là nghệ thuật nghi binh lừa địch, giấu đi hướng tiến công chủ yếu của ta, khiến địch bất ngờ, mất quyền chủ động đối phó, tạo thế và giữ vững quyền chủ động tiến công của ta trong suốt quá trình chiến dịch. Đây là thành công lớn của quân đội ta.
Sau khi Quân ủy Trung ương họp triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh mặt trận xác định Buôn Ma Thuột là mục tiêu then chốt. Tuy nhiên, nếu địch phát hiện được ý định này, tăng cường lực lượng cho Buôn Ma Thuột thì ta sẽ gặp nhiều khó khăn.
Với phương châm và tư tưởng chỉ đạo là "mạnh bạo, chắc thắng, chủ động, cơ động, linh hoạt, bí mật, bất ngờ," công tác chuẩn bị Chiến dịch Tây Nguyên diễn ra vô cùng bí mật, cùng nhịp độ ngày một khẩn trương và quy mô ngày càng lớn.
Để giữ bí mật công tác chuẩn bị chiến dịch và cơ động lực lượng vào các hướng trên chiến trường, một kế hoạch nghi binh tuyệt mật mang mật danh "Kế hoạch tác chiến B" được Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên triển khai thống nhất, chặt chẽ, liên tục trên diện rộng với nhiều lực lượng tham gia.

Đơn vị vận tải C3 anh hùng (Đoàn 250 Tây Nguyên) cõng đạn ra chiến trường. (Ảnh: Thanh Tung/TTXVN)
Mục đích của kế hoạch này là tranh thủ tiêu hao, tiêu diệt một số sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch trên một số điểm trọng yếu. Giam chân, thu hút, căng kéo chủ lực địch ở tại chỗ, không cho địch cơ động lực lượng về khu vực Đức Lập, Gia Nghĩa, Thuần Mẫn; luôn luôn làm cho địch hiểu lầm ta triển khai đánh Kon Tum; cắt phía Đông Đường 19, uy hiếp Pleiku. Kế hoạch này tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các hướng Đức Lập, Gia Nghĩa, Thuần Mẫn triển khai các công tác chuẩn bị.
Phương án tác chiến Chiến dịch Tây Nguyên là bố trí lực lượng, hình thành một thế trận "Trói địch lại mà diệt." Đây là một thế trận hoàn toàn chủ động, tiến công đánh địch chắc thắng, đánh địch bằng thế và lực, đánh địch bằng mưu kế như Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã viết trong cuốn sách “Về cách dùng binh." Đó là mưu cao nhất là mưu lừa địch, kế hay nhất là kế điều địch.
Muốn vậy, trước hết ta phải tạo dựng một không gian chiến dịch, một thế trận chia cắt, vây hãm, vừa vây hãm vừa tiến công, đột phá vừa bằng sức mạnh vừa bằng mưu kế, bí mật, bất ngờ giành toàn thắng. Sau đó là nghi binh đánh lạc hướng địch, giành thế bất ngờ.
Triển khai phương án tác chiến của Bộ Tư lệnh, bộ đội ta tiến hành công tác "chuẩn bị chiến dịch" rầm rộ ở phía Bắc Tây Nguyên. Những hoạt động nghi binh của ta rất hiệu quả, thu hút một lực lượng lớn chủ lực địch về hướng Bắc Tây Nguyên, làm cho chúng luôn lúng túng, bị động đối phó trong một thời gian khá dài.
Những hoạt động nghi binh của ta rất hiệu quả, thu hút một lực lượng lớn chủ lực địch về hướng Bắc Tây Nguyên, làm cho chúng luôn lúng túng, bị động đối phó trong một thời gian khá dài.
Địch phán đoán ta sắp mở chiến dịch ở phía Bắc Tây Nguyên, lấy Kon Tum làm mục tiêu chủ yếu, như sau này một thiếu tá quân đội Việt Nam Cộng hòa đã khai rằng: vùng chiến thuật hai nhận định: năm 1975, mục tiêu tiến công của các ông sẽ là Kon Tum..., các ông chưa đánh Buôn Ma Thuột, vì không đưa được xe tăng và lương thực, đạn dược vào đó... Đây là một sai lầm lớn của địch mà ta đã triệt để khai thác.
Thực hiện triệt để kế hoạch nghi binh đánh lừa địch, Bộ Tư lệnh quyết định để Thượng tá, Tham mưu phó Hồng Sơn ở lại hậu cứ phía Tây Pleiku điều hành kế hoạch nghi binh. Hai Sư đoàn 10 và 320 khi hành quân vào Đắk Lắk đã để toàn bộ cụm điện đài và báo vụ viên ở lại vị trí cũ. Hằng ngày, các đài vẫn phát đi các bức điện báo cáo tình hình như thường lệ.
Mặt khác, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã đưa Sư đoàn 968 từ Nam Lào về Tây Nguyên, vào thay cho Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320. Sư đoàn 968 đã thực hiện một loạt những trận đánh có bài bản theo kiểu đột phá lần lượt: trước khi đánh vào mục tiêu chính, thậm chí có cả pháo lớn tham gia, cách triển khai như là có nhiều sư đoàn sắp đánh vào Pleiku.

Đến ngày ta nổ súng, địch cũng không biết Sư đoàn 316 - lực lượng dự bị chiến lược của Bộ được tăng cường cho chiến dịch - đã hành quân từ Nghệ An vào thẳng Đắk Lắk. Suốt chặng đường hành quân, sư đoàn không dùng điện đài vô tuyến điện, không để lộ phiên hiệu. Đến chiến trường, sư đoàn được bố trí giấu quân ở khu rừng già phía Tây sông Sêrêpốc.
Việc bí mật, đột ngột đưa 2 sư đoàn lên Tây Nguyên là kế hay của Bộ Tổng Tư lệnh mà trực tiếp là Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên đã trực tiếp chỉ huy các hành động chiến đấu nghi binh để giành lấy yếu tố bất ngờ.
Đi liền với các hành động nghi binh lừa địch, nhiều biện pháp bảo đảm tuyệt đối bí mật được triển khai một cách tỉ mỉ, như: cấm liên lạc bằng vô tuyến sóng cực ngắn cho đến khi nổ súng; các đơn vị công binh phải ngày đêm làm đường, san rừng, xẻ núi, bắc cầu..., có những tuyến đường xuất phát tiến công cho xe tăng, xe bọc thép, bộ đội ta phải cưa gốc cây một phần, chờ khi có lệnh là cho xe húc đổ cây thành ngay con đường mới; ta cũng sử dụng bộ đội đặc công và pháo mang vác tấn công địch vào thời gian công binh mở đường, để địch không phát hiện ra tiếng nổ của bộc phá, tiếng máy ầm ầm của xe tăng, pháo binh khi di chuyển.
Vào thời điểm đó, quân địch không hề biết việc nổ mìn làm đường xuất phát tiến công của bộ đội ta. Hai sỹ quan quân đội Việt Nam Cộng hòa Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật sau này đã khai rằng: đến lúc đó chúng tôi vẫn khẳng định đây chỉ là các hoạt động bình thường của đặc công và pháo binh, đến sáng rồi sẽ chấm dứt.
Kế hoạch nghi binh, lừa địch của ta được giữ bí mật đến mức người dân cũng tưởng bộ đội sắp tiến đánh Kon Tum.
Kế hoạch nghi binh, lừa địch của ta được giữ bí mật đến mức người dân cũng tưởng bộ đội sắp tiến đánh Kon Tum. Ngay cả khi Bộ Tư lệnh mặt trận giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 968 đánh đồn Tầm và quận lỵ Thuận An..., đồng chí Thanh Sơn còn ngạc nhiên hỏi lại: Sư đoàn 968 đánh thật hay đánh giả?
Cuộc đọ sức âm thầm giữa ta và địch kéo dài suốt trong quá trình chuẩn bị Chiến dịch Tây Nguyên. Đến cuối tháng 2/1975, địch vẫn không phát hiện được ý định chuẩn bị chiến dịch của ta. Những hoạt động nghi binh chiến địch của ta đã thành công. Đại bộ phận quân chủ lực của địch vẫn bố trí ở phía Bắc Tây Nguyên tại Kon Tum và Gia Lai.
Ở Đắk Lắk và khu vực Buôn Ma Thuột, tình hình không có gì thay đổi. Quyền chủ động chiến dịch nằm trong tay ta. Ta có điều kiện và thời cơ tiến công địch trong thị xã Buôn Ma Thuột theo phương án địch không có phòng ngự dự phòng. Cùng thời gian này, các lực lượng tham gia Chiến dịch Tây Nguyên đã hoàn thành nhiệm vụ tập kết tại các khu vực quy định. Bộ đội ta đã chuẩn bị đủ điều kiện thuận lợi cho mở màn Chiến dịch Tây Nguyên.




Đến trước ngày mở màn chiến dịch Tây Nguyên, địch vẫn đinh ninh Sư đoàn 10 đang ở Kon Tum, Sư đoàn 320 ở Pleiku. Tướng Mỹ Sáclơ Timmét, Cố vấn quân sự cho Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên, cũng phải thú nhận: bằng biện pháp nghi binh qua làn sóng điện, phía Việt Cộng đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của quân lực Việt Nam Cộng hòa thuộc Quân khu 2 ở tỉnh Pleiku, Kon Tum.
Thậm chí, gần sát ngày nổ súng của ta, phát hiện những dấu hiệu khả nghi, như nhặt được một số vật dụng và bắt được một chiến sỹ của Sư đoàn 320, địch cho quân thăm dò lên phía Bắc - nơi bộ đội Sư đoàn 320 đang giấu quân và chuẩn bị trận địa. Địch càn đến đâu, bộ đội ta lùi vào đến đó và xóa hết dấu vết. Không phát hiện được gì, địch yên tâm và rút quân trước khi ta nổ súng tiến công khoảng 40 giờ. Chúng ta lại thêm một lần nữa nghi binh thắng địch.
Từ ngày 5 đến ngày 9/3/1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương kiên trì, khôn khéo, giữ bí mật đến cùng cho trận đánh Buôn Ma Thuột, đánh các trận mở đầu Cẩm Ga, Đức Lập, tạo thế có lợi trực tiếp cho trận đánh then chốt quyết định ở thị xã.
Thực hiện chủ trương đó, với nhận định thời cơ đánh viện lớn bằng đường bộ của Sư đoàn 320 trước mắt chưa có, để tranh thủ mở rộng địa bàn và rảnh tay khi đánh thị xã Buôn Ma Thuột, ta chủ trương tiêu diệt tiếp cứ điểm Cẩm Ga (quận lỵ Thuần Mẫn). Với việc Cẩm Ga và Đức Lập bị đánh chiếm, các đường số 14, 19 và 21 bị cắt đứt, thị xã Buôn Ma Thuột đã bị bao vây, cô lập hoàn toàn.
Bằng cách đánh mạnh bạo, khôn khéo, đến hết ngày 11/3/1975, bộ đội ta đã đánh chiếm hết các mục tiêu quan trọng nhất, gồm: Sư đoàn bộ 23, tiểu khu, sân bay thị xã; khống chế sân bay Hòa Bình, làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột…, cơ bản đập vỡ thế trận của địch.

Xe quân sự của Ngụy dồn ứ trên đường 7 khi chúng tháo chạy khỏi Tây Nguyên. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Đến ngày 17/3/1975, trận then chốt tiến công thị xã Buôn Ma Thuột kết thúc thắng lợi. Quân địch hoảng loạn rút chạy khỏi Tây Nguyên, mở đầu cho sự sụp đổ nhanh chóng của quân đội và chính quyền Sài Gòn trên phạm vi toàn miền Nam.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã làm chuyển biến thế chiến lược có lợi cho quân và dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước./.
