Chiến dịch Huế-Đà Nẵng: Nước cờ thay đổi hẳn cục diện chiến tranh

Chiến dịch Huế-Đà Nẵng (từ ngày 21-29/3/1975) là một trong ba chiến dịch lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

Thắng lợi của Chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, cùng với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh, tạo ra những điều kiện cơ bản, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Nắm thời cơ, hạ quyết tâm, hành động chính xác

Khi xây dựng Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976, cơ quan chiến lược cơ bản đều thống nhất sau khi đánh Tây Nguyên, thì đòn thứ hai là Huế-Đà Nẵng; đòn thứ ba là Sài Gòn.

Đến cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng (ngày 18/12/1974-2/1/1975), Bộ Tổng Tham mưu đã kiên trì bảo vệ ý kiến phải có 3 đòn tiến công mà không thể từ Tây Nguyên đánh thẳng vào Sài Gòn. Bên cạnh đó, trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng phải huy động sức mạnh của miền Bắc, hậu phương lớn.

Vào giữa tháng 3/1975, thắng lợi ban đầu của Chiến dịch Tây Nguyên, đặc biệt là trận then chốt giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Mở ra khả năng thắng lớn của cách mạng.

 Phương tiện chiến tranh của địch ở Chi khu quân sự kiên cố Đức Lập rơi vào tay quân giải phóng trong Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Phương tiện chiến tranh của địch ở Chi khu quân sự kiên cố Đức Lập rơi vào tay quân giải phóng trong Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Nhận thấy thời cơ chiến lược thuận lợi và đến sớm hơn dự tính, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị đã họp bàn và quyết định bổ sung vào quyết tâm chiến lược là tập trung giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Bộ Chính trị nhấn mạnh để thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản đề ra, nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân lúc này là mở tiếp đòn tiến công chiến lược thứ 2 - giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh ven biển miền Trung.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của bộ Chính trị đề ra, quân và dân ta đã đẩy mạnh tiến công địch trên chiến trường Trị-Thiên và các tỉnh ven biển thuộc khu V, gây áp lực, buộc địch phải dồn lực lượng về giữ các thành phố lớn trong đó có Huế và Đà Nẵng.

Ngày 21/3/1975, trên chiến trường Trị-Thiên và Nam-Ngãi, bộ đội ta đồng loạt nổ súng, thực hiện chia cắt Huế với Đà Nẵng, cắt đứt đường số 1, chặn đánh địch ở cửa biển Thuận An và Tư Hiền.

Thành phố Huế hoàn toàn bị bao vây, cô lập. Ngày 22/3/1975, Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 1 ngụy bỏ chạy về Đà Nẵng bằng đường không.

Mất chỉ huy và trước áp lực tiến công của ta, quân địch ở Huế bắt đầu rối loạn. Lực lượng địch tuy đông nhưng không còn ý chí chiến đấu, chỉ lo rút chạy.

Đêm 24/3/1975, từ các hướng, những đơn vị binh chủng hợp thành của ta bắt đầu tiến vào thành phố. Được nhân dân và lực lượng biệt động thành hỗ trợ, quân ta đã đánh thẳng vào trung tâm thành phố Huế, tiêu diệt Sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy tại Mang Cá, chiếm cửa Ngọ Môn, Tòa thị chính, Ty cảnh sát... và cắm lá cờ chiến thắng lên đỉnh Phú Văn Lâu. Ngày 26/3/1975, thành phố Huế được hoàn toàn giải phóng.

 Cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời tung bay trên cột cờ thành phố Huế. (Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN)

Cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời tung bay trên cột cờ thành phố Huế. (Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN)

Sau khi mất Huế, lại mất Tam Kỳ (Quảng Ngãi), Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố "tử thủ" Đà Nẵng bằng mọi giá và cho rằng sau giải phóng Huế, nếu ta muốn tiến công Đà Nẵng thì phải mất ít nhất một tháng chuẩn bị.

Nhưng chúng đã nhầm. Để tạo thế cho việc giải phóng thành phố Đà Nẵng, ngay từ khi Chiến dịch Tây Nguyên mở màn, bộ đội địa phương các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Quảng Đà đã tiêu diệt các mục tiêu nhỏ, lẻ, cắt giao thông, phá kho tàng, tiêu hao lực lượng và phương tiện chiến tranh của địch.

5 giờ 30 phút ngày 28/3/1975, với phương châm "nhanh nhất, kịp thời nhất, táo bạo nhất, nhưng chắc thắng," trên tất cả các hướng, bộ đội ta mở trận công kích vào thành phố Đà Nẵng.

Pháo 130mm, D74, ĐKB bắn chế áp mãnh liệt các mục tiêu ở Hòn Bằng, Trà Kiệu, sân bay Đà Nẵng, cảng Sơn Trà, sân bay Nước Mặn.

Trong lúc đó các cánh quân nhanh chóng áp sát thành phố. Đến 15 giờ ngày 29/3/1975, quân ta chiếm lĩnh toàn bộ căn cứ liên hợp Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà; 17 giờ giải phóng hoàn toàn thành phố.

Như vậy, chỉ trong một thời gian rất ngắn, quân và dân ta đập tan hệ thống phòng thủ của địch, giải phóng 5 tỉnh liên hoàn là Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Đà, Quảng Nam và Quảng Ngãi, trong đó có hai thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng.

Chiến thắng Đà Nẵng đã kết thúc thắng lợi Chiến dịch Huế-Đà Nẵng.

 Cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời tung bay trên cột cờ thành phố Huế. (Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN)

Cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời tung bay trên cột cờ thành phố Huế. (Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN)

Có thể khẳng định với những quyết định chính xác, táo bạo và rất kịp thời của các cấp, quân và dân ta đã nhanh chóng thực hiện thắng lợi đòn tiến công giải phóng Huế-Đà Nẵng, đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, góp phần quyết định làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, tạo ra sự nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta.

Bước nhảy vọt trong cục diện chiến tranh

Đòn tiến công chiến lược thứ 2 giải phóng Huế-Đà Nẵng có ý nghĩa hết sức to lớn, thể hiện ở việc ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn Quân đoàn 1 và Quân khu 1 của địch, giáng đòn nặng nề vào chính quyền và quân đội Sài Gòn cũng như kế hoạch kéo dài chiến tranh của Mỹ.

Chiến dịch Huế-Đà Nẵng đã trực tiếp đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, cùng với chiến dịch Tây Nguyên góp phần quyết định làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, tạo ra sự nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta, đẩy nhanh tới chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Chỉ trong một thời gian ngắn ta đã tiêu diệt được nhiều sư đoàn chủ lực của địch, trong đó có nhiều sư đoàn tinh nhuệ như sư thủy quân lục chiến, sư 1 bộ binh, sư không quân, loại khỏi vòng chiến đấu 120.000 tên địch, làm tan rã 137.000 phòng vệ dân sự; thu 129 máy bay, 179 tăng thiết giáp, 327 khẩu pháo, hơn 1.100 xe quân sự và tàu xuồng...

 Về nghệ thuật quân sự, đòn tiến công Huế-Đà Nẵng là sự chuyển hướng tiến công sáng suốt, linh hoạt và rất kịp thời của ta, tạo sự sụp đổ dây chuyền nhanh chóng của địch. (Ảnh: Hoàng Giang/TTXVN)

Về nghệ thuật quân sự, đòn tiến công Huế-Đà Nẵng là sự chuyển hướng tiến công sáng suốt, linh hoạt và rất kịp thời của ta, tạo sự sụp đổ dây chuyền nhanh chóng của địch. (Ảnh: Hoàng Giang/TTXVN)

Chiến thắng đã tạo thêm địa bàn chiến lược mới có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt. Các tỉnh mới được giải phóng trong Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, cùng một vùng mới giải phóng ở các tỉnh Tây Nguyên đã tạo nên vùng hậu phương chiến lược hoàn chỉnh có lợi cho việc bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, thuận tiện cho việc cơ động bằng đường bộ, đường biển, đường không nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương lớn của cả nước, đáp ứng kịp thời việc tăng cường lực lượng, bổ sung vật chất cho cuộc tiến công quy mô lớn vào Sài Gòn trong một thời gian ngắn nhất.

Về nghệ thuật quân sự, đòn tiến công Huế-Đà Nẵng là sự chuyển hướng tiến công sáng suốt, linh hoạt và rất kịp thời của ta, tạo sự sụp đổ dây chuyền nhanh chóng của địch.

Trong quá trình tiến công, quân ta đã nhanh chóng cắt đường 1, chia cắt cô lập Huế và Đà Nẵng, hình thành thế bao vây, tiến công áp đảo bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng từ nhiều hướng, không cho địch kịp đối phó và rút chạy.

Đòn tiến công Huế-Đà Nẵng còn là sự kết hợp hoạt động hết sức chặt chẽ, sự chủ động, táo bạo tiến công khi thời cơ đến của quân và dân Quân khu Trị-Thiên, Quân khu 5 cùng Quân đoàn 2 và các đơn vị bộ đội chủ lực đứng chân trên địa bàn, thực sự là đòn tiến công chiến lược có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt.

Cùng với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta nhanh chóng đi đến thắng lợi cuối cùng.

Chiến dịch cũng để lại nhiều bài học quý. Đó là bài học về nắm thời cơ, hạ quyết tâm, hành động chính xác; bài học về chấp hành nghiêm sự chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng, luôn bám sát mục tiêu chủ yếu, nhiệm vụ chủ yếu để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy tính chủ động, linh hoạt sáng tạo của lực lượng trực tiếp, lực lượng tại chỗ và của các địa phương; phát huy tối đa sức mạnh của nhân tố chủ chốt, ở đây là những binh đoàn chủ lực trong đòn tiến công chiến lược.

Những bài học quý ấy tiếp tục được Đảng ta chắt lọc, vận dụng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay mà biểu hiện rõ nhất là nắm vững thời cơ, phát huy nội lực, tranh thủ điều kiện thuận lợi của khách quan, vượt qua khó khăn, hoàn thành xuất sắc các mục tiêu đề ra./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/chien-dich-hue-da-nang-nuoc-co-thay-doi-han-cuc-dien-chien-tranh-post1019918.vnp
Zalo