Chiếc áo Mỵ Châu...!?

Sách 'Thiền uyển tập anh' và 'Đại Việt sử ký toàn thư' đều ghi câu chuyện năm Đinh Hợi (987), nhà Tống sai Lý Giác sang sứ nước ta. Khi đến chùa Sách Giang, vua sai thiền sư Pháp Thuận giả làm người chèo thuyền ra đón.

Vốn là văn nhân, trông thấy đôi ngỗng trên sông, Giác vui ngâm rằng: "Nga nga lưỡng nga nga/ Ngưỡng diện hướng thiên nha" (Ngỗng ngỗng hai con ngỗng/ Ngửa mặt nhìn chân trời). Người chèo đò liền ứng tác đọc theo: "Bạch mao phô lục thủy/ Hồng trạo bãi thanh ba" (Nước lục phô lông trắng/ Chèo hồng sóng xanh bơi).

Tưởng chỉ là chuyện giao đãi thông thường, nhưng theo giải thích của các bậc thâm Nho, ẩn ý trong câu Lý Giác ngầm một sự coi thường: vua tôi nhà Tiền Lê như đàn ngỗng hướng về mặt trời (tức vua Tống). Câu nối theo của Pháp Thuận cũng ngầm cho người Tống biết, đất nước này thanh bình, nhẹ nhàng, nhưng khi cần, cũng như mái chèo sẽ dập đầu ngọn sóng. Kinh ngạc nghe câu đáp, trong lòng Lý Giác thầm kính trọng sự cứng cỏi của người Nam…

Tượng đá thờ Mỵ Châu ở Cổ Loa – Hà Nội.

Tượng đá thờ Mỵ Châu ở Cổ Loa – Hà Nội.

Vẫn theo lời giảng của các bậc cao nhân, Lý Giác được Tống Hy Tông phong là Quốc tử giám bác sĩ - một văn thần, học rộng, tài cao. Đi sứ chỉ là bình phong cho việc thăm dò tình hình nhân tâm Đại Việt sau khi Lê Hoàn lên ngôi thay họ Đinh. Pháp Thuận (914 - 990) - thiền sư đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi, khi nhà Tiền Lê dựng nghiệp, tham dự triều chính đắc lực. Thiên hạ thái bình, xin về tu hành...

Truy về nguồn gốc thì màn đối đáp này lấy từ bài “Vịnh nga” của Lạc Tân Vương ra đời 3 thế kỷ trước: "Nga, nga, nga/ Khúc hạng hướng thiên ca/ Bạch mao phù lục thủy/ Hồng chúy bát thanh ba" (Ngỗng, ngỗng, ngỗng/ Nghển cổ lên trời kêu/ Lông trắng phô nước biếc/ Chân hồng quẫy sóng xanh). Câu chuyện và cách hiểu trên có thể thiên về suy diễn nhưng hạt nhân ý nghĩa thì dễ nhận ra: tinh thần tự hào dân tộc về một đất nước văn hiến và ý chí mạnh mẽ, sẵn sàng, quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự chủ… Từ góc nhìn hình tượng (ngỗng) lại cho thấy nhiều vấn đề đặt ra.

Hình tượng ngỗng (chung cho cả ngỗng nhà và ngỗng hoang) vốn quen thuộc trong văn hóa Trung Hoa cổ, có rất nhiều trong "Kinh Thi" (sản phẩm của văn minh Trung Hoa, nhưng có nhiều chi tiết cho thấy ra đời ở văn minh Văn Lang). Nhất là hình tượng ngỗng hoang chấp chới bay, thảng thốt kêu trong không gian thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Tô Thức…

Có thống kê thú vị rằng hình tượng ngỗng có nhiều hơn cả trong trước tác các văn nhân thi sĩ bị lưu đày hoặc phiêu bạt xuống phương Nam, gần khu vực hồ Động Đình và các vùng nước ngập lân cận (nơi ngỗng hoang sinh sống). Rất có thể hiện thực di cư của ngỗng gợi liên tưởng về sự xa xôi, chia ly, lẻ loi, cô độc… trở thành nguồn cảm hứng. Thế là biết bao hình tượng con ngỗng từ không gian vật lý bay vào không gian thơ, làm ẩn dụ, ký thác cho bao tâm trạng, để lại nhiều đường bay ý nghĩa làm hậu thế phải giật mình…

Đấy là chuyện văn chương, còn trong thực tế, thì nghệ thuật ẩm thực Trung Hoa góp cho thế giới món ngỗng quay nổi tiếng. Ngỗng nguyên con (chắc là ngỗng nhà) đem nướng/quay cho lớp da giòn rụm, thịt ngọt mềm, mọng nước, tẩm ướp gia vị rồi ăn kèm với nước sốt mận, như mời gọi cả thế giới. Như vậy ngỗng là hình tượng quen thuộc trong văn hóa Trung Hoa cả xưa và nay.

Chưa hết, qua bộ phim nổi tiếng phỏng theo tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa", thiên hạ đều thấy cái quạt lông ngỗng gắn liền với nhân vật chính Khổng Minh. Tại sao vậy? Đây là một vài lý giải của các học giả Trung Quốc trước nay, dù dựa theo truyền thuyết, hay căn cứ vào thực tế, cũng đáng tham khảo:

Một, chiếc quạt này do cha vợ Hoàng Thừa Ngạn tặng cho. Vốn am hiểu binh pháp, giỏi tử vi, lý số, có sở thích sưu tầm sách, lại thích nuôi ngỗng nên rất hiểu tập tính loài động vật này. Gả con gái Hoàng Nguyệt Anh cho Gia Cát, Hoàng Thừa Ngạn phần nào đoán được tương lai chàng rể tài năng bèn tặng cho các cuốn binh pháp và cái quạt lông ngỗng, rồi dặn: "Ngỗng là loài cảnh giác nhất. Có quạt này bên cạnh, con luôn phải nhắc nhở bản thân tỉnh táo và thận trọng". Khi Gia Cát quyết định xuống núi giúp Lưu Bị, Thừa Ngạn giết ngỗng làm bữa cơm tiễn con rể, cũng là cách nhắc nhở lại ý đã nói.

Hai, do người vợ Nguyệt Anh tặng. Vốn là một nữ nhi xuất chúng, khi theo học một danh sư, được thầy tặng cho chiếc quạt lông ngỗng có viết hai chữ Minh Lượng (tên chồng sau này), Nguyệt Anh tặng lại phu quân. Theo bà, để chồng che mặt giấu ưu tư, lo lắng khi bàn chuyện chính sự, tránh làm lộ cảm xúc.

Ba, vốn là ngôi sao trên trời được Ngọc Hoàng phái xuống phò tá Lưu Bị giúp thiên hạ thái bình, Thái hậu thiên giới bèn nhổ lông thiên nga trắng làm thành quạt ban tặng Gia Cát. Bốn, chỉ huy dùng quạt lông vũ trắng, sẽ được thuộc hạ nhận biết nhanh nhất. Năm, dùng để chắn gió, bụi, nhất là cát bụi, gió nóng nơi sa trường… Tất cả đều là phỏng đoán dựa trên việc khi xuất trận, Gia Cát Lượng mặc áo Bát quái, tay cầm quạt lông, ngồi trên xe đẩy, thế là gần như nắm chắc phần thắng.

Tam Quốc thuộc giai đoạn 220 - 280 trong thế chân vạc ba nước Ngụy, Thục, Ngô, sau thời An Dương Vương (khoảng 257 đến 208 TCN hoặc 208 đến 179 TCN) rất lâu. Tức chiếc áo lông ngỗng tình cảm của Mỵ Châu có trước cái quạt lông ngỗng "thần cơ diệu toán" của Khổng Minh trên dưới 400 năm. Tại sao nàng không mặc áo lông loài chim khác? Phải chăng đây là một biểu hiện của quan niệm đáng chú ý: có nguồn gốc từ văn minh xứ ta rồi ngược dần lên và nở rộ ở phương Bắc kết thành trái cây văn hóa Trung Hoa!? Phải chăng người phương Nam đã sớm thuần hóa ngỗng trời thành ngỗng nhà, để may dệt nên những chiếc áo lông ngỗng vừa đẹp, vừa ấm, vừa bền. Theo con đường giao lưu, người Trung Hoa sau đó đã tiếp thu… Nhưng rõ ràng, trong đời sống văn hóa tinh thần xứ Việt, chiếc áo là một hoán dụ thân thiết chỉ người. Như những câu ca dao sau này: "Thương nhau cởi áo trao nhau/ Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay"; "Hôm qua tát nước đầu đình/ Để quên cái áo trên cành hoa sen…".

Nàng Mỵ Châu dặn chồng cứ theo dấu lông ngỗng mà tìm, bởi đó cũng là tấm lòng nàng gửi vào đó. Sau này các con cháu nàng mới khái quát, khi sự vật nào gắn bó thân thiết với con người thì thành nghệ thuật tu từ gọi là "hoán dụ", thì với nàng, cái áo là một hoán dụ đau đớn và thiêng liêng. Nàng dứt từng chiếc lông cũng là dứt từng tia hy vọng sự sống để báo cho người yêu. Nếu đúng vậy, thì còn tình yêu nào lớn hơn, chân thành hơn nữa? Nàng đã không biết mình bị lợi dụng! Còn Trọng Thủy có yêu nàng không? Có. Chắc chắn vậy. Thế nên nó mới chết theo Mỵ Châu - một người yêu thánh thiện, trong sáng tận cùng, chung thủy tận độ. Nó sẽ chết trong tức tưởi nuối tiếc hàng vạn, hàng triệu năm sau, khi còn loài người!

Hình tượng quen thuộc của Khổng Minh. (tranh minh họa).

Hình tượng quen thuộc của Khổng Minh. (tranh minh họa).

Áo lông ngỗng hoán dụ cho nàng Mỵ Châu. Quạt lông ngỗng hoán dụ cho Gia Cát. Xin các bạn tiếp tục luận bàn, chỉ xin kết lại bằng những sự thật khoa học về loài ngỗng, bổ sung cho các gợi dẫn trên.

Thị giác (ban ngày) và thính giác (ban đêm) của ngỗng cực kỳ nhạy bén, có thể cảm nhận những chuyển động rất nhỏ từ xa. Có trí nhớ tốt, nhớ và phân biệt được người qua hình dạng, điệu bộ, giọng nói; nhớ được tình huống, môi trường xung quanh. Ngoài khả năng canh gác, tiếng kêu của ngỗng vừa là chuông báo thức vừa là "còi báo động". Rất "trong sáng", không bao giờ bị hấp dẫn bởi đồ ăn, vì chỉ ăn cỏ, nên nhiều vùng trên thế giới thích nuôi ngỗng để giữ nhà, trông nom ruộng vườn…

Ví như ở Trung Quốc, có nơi ngỗng được dùng để bảo vệ các đồn cảnh sát; quân đội Mỹ mua ngỗng từ các nông dân Đức để bảo vệ căn cứ quân sự (trên đất Đức); ở Scotland, hãng rượu whisky dùng ngỗng để canh gác các cơ sở nấu rượu… Với những đặc trưng này, hình tượng ngỗng là nguồn cảm hứng trong thơ cổ, lông ngỗng làm quạt, làm áo… mang tính biểu trưng, cũng không khó cắt nghĩa.

Kính mong các nhà văn bản học, ký hiệu học, các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học cũng như mọi độc giả, khi đọc, tìm hiểu truyện "Mỵ Châu - Trọng Thủy"/ "An Dương vương"/"Chiếc nỏ thần", thêm sự chú ý vào hình tượng chiếc áo lông ngỗng. Rất có thể có sự liên tưởng, chuyển nghĩa (trong sáng, cảnh giác…) giữa hai hình tượng. Chắc chắn, ngoài nghĩa biểu vật còn sâu sắc nhiều ý nghĩa nói lên thời đại Hùng Vương, quan hệ với xứ sở Trọng Thủy… Rất có thể người phương Bắc đã học tập, tiếp thu trang phục người Nam ta, như Khổng Tử từng nhận định trong “Luận ngữ”: "Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải búi tóc và vắt vạt áo bên tả như người Man Di"!?

Nguyễn Thanh Tú

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/ly-luan/chiec-ao-my-chau--i761163/
Zalo