Chế định thỏa thuận nhận tội mang lại nhiều lợi ích
Trong bối cảnh tinh gọn bộ máy và cải cách tư pháp thì việc nghiên cứu để áp dụng chế định thỏa thuận nhận tội tại Việt Nam là điều cần thiết.
Nước ta đang thực hiện một cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy và điều này đã mở ra cơ hội lớn để đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp.
Về vấn đề này, Trung tướng Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao, Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, cho rằng để giảm áp lực điều tra, truy tố, xét xử cả sơ thẩm lẫn phúc thẩm thì nên tiếp tục hoàn thiện cơ chế xét xử rút gọn và khuyến khích thỏa thuận nhận tội.
Có thể thấy thỏa thuận nhận tội là một chế định có phần lạ lẫm với trình tự tố tụng hình sự của Việt Nam từ xưa đến nay và chế định này cũng tồn tại những nhược điểm nhất định. Tuy nhiên, trên tinh thần tinh gọn bộ máy, cải cách tư pháp một cách quyết liệt, mạnh mẽ nhằm đạt được những bước tiến mang tính đột phá thì đã đến lúc chúng ta cần nghiên cứu để áp dụng chế định này.

Một phiên xử tại TAND tỉnh Long An. Ảnh: HUỲNH DU
Thỏa thuận nhận tội là gì?
“Thỏa thuận nhận tội” (plea bargains) hay còn được biết đến với các tên gọi như “mặc cả thú tội”, “thương lượng nhận tội”… là một chế định pháp luật khá phổ biến tại các quốc gia theo hệ thống thông luật (Common Law) với phương thức tố tụng tranh luận. Đại diện tiêu biểu nhất là Mỹ, với tỉ lệ các vụ án hình sự được giải quyết bằng con đường thỏa thuận nhận tội lên đến hơn 90% tổng số vụ án.
Tại các quốc gia theo hệ thống dân luật (Civil Law) với phương thức tố tụng thẩm vấn hoặc kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng thì chế định thỏa thuận nhận tội chiếm tỉ lệ ít hơn. Mặc dù vậy, trên bình diện chung, việc quy định và áp dụng chế định thỏa thuận nhận tội đang có xu hướng ngày càng tăng về số lượng quốc gia áp dụng, cũng như tỉ lệ giải quyết bằng cơ chế này trên tổng số vụ án hình sự được giải quyết.
Tham khảo quy định của các quốc gia có áp dụng chế định thỏa thuận nhận tội như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản… cho thấy khái niệm về thỏa thuận nhận tội ở mỗi quốc gia không giống nhau. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách đơn giản rằng “Thỏa thuận nhận tội là một bước trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Trong đó, bên buộc tội (công tố viên/kiểm sát viên) và bên gỡ tội (luật sư, người bị buộc tội) tự thỏa thuận với nhau về việc người bị buộc tội đồng ý nhận tội đối với hành vi mà mình đã thực hiện, nhằm có được một kết quả (chế tài hình sự) mà người bị buộc tội cho là có lợi cho mình nhất như được áp dụng hình phạt nhẹ hơn, được áp dụng mức án thấp hơn hoặc chuyển sang tội danh khác nhẹ hơn so với việc vụ án sẽ được tòa án xét xử và tuyên án nếu không có thỏa thuận nhận tội”.

Luật sư Trương Ngọc Liêu, Đoàn Luật sư TP Hà Nội.
Giải quyết nhiều vấn đề
Hiện nay, hầu hết quốc gia trên thế giới đều ghi nhận nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong hệ thống pháp luật hình sự.
Không nằm ngoài xu hướng đó, ở nước ta, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 BLTTHS 2015.
Đồng thời, tại Điều 85 BLTTHS 2015, nhà làm luật đã quy định rõ khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh sáu vấn đề, như: “(i) Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; (ii) ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; (iii) những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự…
Quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội và những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự nêu trên cho thấy khối lượng công việc của cơ quan tiến hành tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) hiện nay là vô cùng lớn. Trong khi đó, thực tiễn xét xử đã chứng kiến rất nhiều các vụ án mà hồ sơ bị trả lại để điều tra, truy tố bổ sung rất nhiều lần.
Nguyên nhân của việc này là do những vấn đề cần phải chứng minh tại Điều 85 BLTTHS chưa được làm rõ, trong khi đó bị cáo kiên quyết không thừa nhận hành vi phạm tội. Dù rất có thể đó là sự thật khách quan nhưng chưa được chuyển hóa thành sự thật pháp lý bởi thiếu chứng cứ chứng minh.
Vấn đề là nếu sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung, vì nhiều lý do khác nhau mà không củng cố được thêm các nội dung cần làm rõ theo yêu cầu thì theo quy định, tòa án vẫn phải đưa ra phán quyết sau cùng.
Trong trường hợp này, tòa án sẽ đứng trước sự lựa chọn khó khăn: Một là, tuyên bị cáo phạm tội với những chứng cứ buộc tội chưa được chắc chắn, có thể dẫn đến oan sai, đi ngược nguyên tắc suy đoán vô tội; hai là, áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội và tuyên bị cáo không phạm tội với nguy cơ bỏ lọt tội phạm và có lỗi với bị hại.
Nói chung, dù phán quyết theo hướng nào cũng đều tiềm ẩn những rủi ro pháp lý và có những điểm “gợn” nhất định. Đây là một tình thế tiến thoái lưỡng nan điển hình mà chúng ta chưa có phương án giải quyết.
Tuy nhiên, chìa khóa để có thể giải quyết tình trạng này chính là chế định “thỏa thuận nhận tội”. Theo đó, với tình huống trên, kiểm sát viên và bị can, luật sư bào chữa có thể thỏa thuận với nhau về việc bị can nhận tội (thú tội) bằng một thỏa thuận nhận tội. Thỏa thuận này sau đó sẽ được gửi đến tòa án xem xét công nhận hoặc không công nhận mà tòa án không cần phải mở phiên tòa xét xử vụ án theo trình tự, thủ tục hiện hành. Một thỏa thuận nhận tội sẽ giúp đóng lại vụ án vốn dĩ đã kéo dài gây tốn kém thời gian, công sức, tiền bạc của hệ thống tư pháp, cũng như của chính người bị buộc tội và kịp thời đáp ứng quyền lợi chính đáng của bị hại (nếu có).
Việc quy định và áp dụng chế định thỏa thuận nhận tội đang có xu hướng ngày càng tăng về số lượng quốc gia áp dụng.
Bởi xuất phát từ sự tự nguyện, nên việc thi hành thỏa thuận nhận tội sẽ đảm bảo được thực hiện một cách nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời mà xác suất của việc kháng cáo, kháng nghị sẽ thấp hơn rất nhiều.
Việc này sẽ mang đến nhiều lợi ích, có thể kể đến như: Quá trình giải quyết vụ án nhanh, gọn giúp tiết kiệm thời gian, chi phí của tất cả các bên liên quan; giảm tải khối lượng các vụ án hình sự mà tòa án phải xét xử trong bối cảnh ngành tư pháp đang bị quá tải.
Thỏa thuận nhận tội cũng làm hạn chế hoặc dẫn đến loại trừ (nếu đưa vào quy định) việc kháng cáo, kháng nghị các thỏa thuận đã được tòa án công nhận. Qua đó, khắc phục tình trạng hầu hết bản án sơ thẩm đều bị các bị cáo kháng cáo chỉ với mục đích duy nhất là xin giảm nhẹ hình phạt, gây áp lực lên cấp xét xử phúc thẩm.
Đối với các bị hại, chế định này cũng sẽ giúp việc giải quyết các trách nhiệm hoàn trả lại tiền chiếm đoạt, bồi thường thiệt hại, cấp dưỡng… cho bị hại một cách nhanh hơn mà không phải đợi đến khâu thi hành án sau khi bản án xét xử (có thể là hai cấp) có hiệu lực thi hành.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại một phiên tòa ở TP.HCM. Ảnh: NGUYỄN TIẾN
Việt Nam nên quy định thế nào?
Để phát huy những ưu điểm nhưng cũng đồng thời hạn chế, xóa bỏ những hạn chế của chế định thỏa thuận nhận tội trong bối cảnh nền tư pháp Việt Nam thì một số vấn đề có thể quy định theo hướng sau:
Thứ nhất, cần có sự phân loại đối với các loại tội phạm hoặc nhóm tội phạm có thể được xem xét áp dụng hoặc loại trừ áp dụng chế định thỏa thuận nhận tội.
Tiêu chí phân loại có thể dựa vào tiêu chí phân loại tội phạm của BLHS 2015 (tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) hoặc phân loại dựa vào khách thể của tội phạm tác động (tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; sở hữu; trật tự quản lý nhà nước…).
Thứ hai, điều kiện công nhận thỏa thuận nhận tội có thể tham khảo dựa trên điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự theo BLDS hiện hành gồm: (i) Các bên tham gia có đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự phù hợp - tức có tư cách tham gia thỏa thuận hợp pháp; (ii) các bên tham gia hoàn toàn tự nguyện; (iii) mục đích và nội dung của thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; (iv) hình thức của thỏa thuận đảm bảo tuân thủ yêu cầu của luật định.
Thứ ba, về sự tham gia của tòa án trong quá trình xác lập thỏa thuận nhận tội. Hiện nay, các quốc gia áp dụng chế định này có sự khác biệt nhất định trong quy định về sự tham gia của tòa án. Ví dụ tại Mỹ, tòa án hoàn toàn không tham gia vào quá trình trao đổi, đàm phán, thương lượng để đạt được thỏa thuận nhận tội. Họ chỉ công nhận hoặc không công nhận thỏa thuận này sau khi được các bên đệ trình. Ngược lại, tại Đức, tòa án giữ vai trò trung tâm trong suốt quá trình đàm phán, thương lượng cho đến khi có thỏa thuận nhận tội sau cùng và đưa ra phán quyết về thỏa thuận này.
Việt Nam có thể nghiên cứu sâu hơn để chọn một trong phương án về sự có mặt và tham gia của tòa án đối với thỏa thuận nhận tội hoặc cũng có thể nghiên cứu theo phương án khác, là sự kết hợp, trộn lẫn giữa hai phương án trên. Ví dụ như tòa án có thể không tham gia ngay từ đầu, mà chỉ tham gia sau khi các bên đã có dự thảo Thỏa thuận nhận tội sơ bộ.•
Ý kiến
Luật sư NGUYỄN THÀNH CÔNG, Ủy viên Ban chủ nhiệm, Đoàn Luật sư TP.HCM:
Một số lưu ý khi áp dụng thỏa thuận nhận tội
Cần lưu ý một số đặc điểm quan trọng khi áp dụng thỏa thuận nhận tội.
Thứ nhất là tính tự nguyện - thỏa thuận nhận tội phải hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của bị cáo, không có ép buộc, ví dụ lừa dối.
Thứ hai là tính minh bạch - quá trình đồng ý phải được thực hiện một cách minh bạch, có sự tham gia của các bên liên quan và được ghi nhận đầy đủ.
Thứ ba là phải bảo đảm quyền của người bị tổn hại, cần có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong quá trình thỏa thuận nhận tội.
Thứ tư là vai trò của luật sư, luật sư đóng vai trò quan trọng trong công việc tư vấn pháp lý, bảo vệ quyền lợi cho bị cáo và đảm bảo tính hợp pháp của các thỏa thuận…
Thứ năm là sự phê chuẩn của tòa án, thỏa thuận nhận tội chỉ có hiệu lực khi được tòa án phê chuẩn sau khi xem xét kỹ lưỡng tính tự nguyện, hợp pháp và phù hợp với các quy định của pháp luật.
Luật sư PHẠM VĂN LẠC, Đoàn Luật sư TP.HCM:
Việt Nam đã có cơ chế tương tự
Mục tiêu của Thỏa thuận nhận tội là đơn giản hóa thủ tục tố tụng, nâng cao hiệu quả xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhờ những lợi ích thực tiễn, nguyên tắc này đã được áp dụng tại nhiều quốc gia, mỗi mô hình tố tụng khác nhau sẽ có sự khác biệt trong cách quy định “thỏa thuận nhận tội”.
Ở Việt Nam, mặc dù khái niệm “thỏa thuận nhận tội” chưa được quy định trực tiếp dưới tên gọi này trong các văn bản pháp luật, tuy nhiên cơ chế tương tự đang từng bước được ghi nhận và áp dụng, đặc biệt từ khi BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực.
Thực tiễn ghi nhận trong các vụ án, việc bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực khắc phục hậu quả… sẽ được hưởng mức án nhẹ hơn hoặc xử lý theo hướng khoan hồng.
Tuy nhiên, tôi cho rằng việc đưa “thỏa thuận nhận tội” trở thành một chế định trực tiếp thì chưa phù hợp với hành lang pháp lý và mặt bằng hiểu biết về pháp luật của người dân hiện nay.
ThS NGUYỄN SƠN PHƯỚC, Trường CĐ Cảnh sát nhân dân II:
Cần dự liệu tình huống nhận tội thay
Qua nghiên cứu quá trình áp dụng thực tiễn ở một số nước như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… thì thỏa thuận nhận tội giúp giảm áp lực cho hệ thống tư pháp, có tính khả thi cao. Vì thế đây cũng là xu hướng của cải cách tư pháp mà nước ta nên hướng tới. Việc quy định “thỏa thuận nhận tội” là một chế định cụ thể (điều luật cụ thể) là điều nên làm.
Tuy nhiên, khi áp dụng “thỏa thuận nhận tội” thì cần dự liệu tình huống nhận tội thay vì mục đích thương mại hoặc giúp người thân, khi đó rất dễ xảy ra oan sai.
Do đó, nếu quy định không được quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bị cáo đã “thỏa thuận nhận tội” thì khó đảm bảo tính minh bạch.
Một vấn đề nữa cần quan tâm đó là tên gọi của chế định pháp luật liên quan đến “thỏa thuận nhận tội”. Nếu thay bằng tên gọi “cam kết nhận tội” thì nghe có vẻ mang tính trách nhiệm hơn là “thỏa thuận nhận tội”.
NGUYỄN CHÍNH - YẾN CHÂU ghi