Cấp gần 1.000 mã số mới cho sầu riêng: Cơ hội lớn, trách nhiệm cao

Tổng cục Hải quan Trung Quốc phê duyệt thêm 829 mã số vùng trồng và 131 cơ sở đóng gói sầu riêng Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu chính ngạch. Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã có cuộc trao đổi với báo chí về vấn đề này.

Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật.

Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật.

PV: Thưa ông, Trung Quốc vừa phê duyệt thêm 829 mã số vùng trồng và 131 cơ sở đóng gói sầu riêng. Ông có thể cho biết ý nghĩa của động thái này?

Ông Huỳnh Tấn Đạt: Đây không chỉ là một con số kỹ thuật. Việc gần 1.000 mã số mới được phía Trung Quốc phê duyệt cho thấy mức độ tin cậy ngày càng cao của thị trường này đối với năng lực quản lý chất lượng, giám sát và truy xuất nguồn gốc nông sản của Việt Nam. Kết quả này phản ánh sự chuyển động đồng bộ của cả hệ thống, từ người nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp cho đến cơ quan quản lý Nhà nước.

Cụ thể, bắt đầu từ ngày 20/5/2025, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) đã chính thức thông báo phê duyệt bổ sung 829 mã số vùng trồng và 131 cơ sở đóng gói sầu riêng của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc. Đây là một tín hiệu tích cực. Tính đến thời điểm hiện tại, tổng số mã số vùng trồng được phê duyệt đã nâng lên 1.396 và số cơ sở đóng gói là 188, đánh dấu bước tiến quan trọng trong nỗ lực mở rộng xuất khẩu chính ngạch sầu riêng sang thị trường này.

Để có được kết quả trên, cần ghi nhận sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Bộ Nông nghiệp và Môi trường mà trực tiếp là Bộ trưởng Đỗ Đức Duy và Thứ trưởng Hoàng Trung, trong việc giao Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phối hợp chặt chẽ các đơn vị chức năng, chính quyền địa phương, hiệp hội ngành hàng và nông dân triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật của thị trường, nhất là về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật và truy xuất nguồn gốc.

Đây cũng là kết quả của quá trình hợp tác chặt chẽ, chủ động giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam với Tổng cục Hải quan Trung Quốc, thể hiện rõ cam kết của Việt Nam trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về kiểm dịch và an toàn thực phẩm, bao gồm cả các yêu cầu mới liên quan đến kiểm soát dư lượng kim loại nặng như cadimi và asen trong quả sầu riêng.

Việc mở rộng danh sách mã số không chỉ tạo thuận lợi để tăng sản lượng xuất khẩu trong vụ sầu riêng năm 2025, mà còn góp phần giảm áp lực cho các vùng trồng và cơ sở đóng gói đã được phê duyệt trước đó.

Cục Bảo vệ thực vật đề nghị các địa phương, doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng tiếp tục chủ động nắm bắt cơ hội này, đồng thời nghiêm túc thực hiện các yêu cầu kỹ thuật của thị trường nhập khẩu, nhằm giữ vững uy tín, bảo đảm chất lượng và phát triển bền vững thương hiệu sầu riêng Việt Nam trên thị trường quốc tế.

PV: Quy mô mã số mở rộng chắc hẳn sẽ có tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu?

Ông Huỳnh Tấn Đạt: Đúng vậy. Đây là thời điểm cao điểm thu hoạch sầu riêng, từ tháng 7 đến tháng 11. Việc có thêm mã số không chỉ giúp mở rộng quy mô xuất khẩu, mà còn là công cụ quan trọng để điều tiết thị trường, tránh ùn ứ ở cửa khẩu, giảm rủi ro về giá. Hơn nữa, mã số giúp thực hiện hiệu quả các hợp đồng giữa người dân và doanh nghiệp, hạn chế tình trạng tranh mua, tranh bán.

Không chỉ mang ý nghĩa mở rộng quy mô xuất khẩu, động thái từ GACC được xem là tín hiệu tích cực cho mùa vụ sầu riêng đang bước vào cao điểm, thu hoạch từ tháng 7 đến tháng 11. Với hệ thống mã số ngày càng mở rộng, doanh nghiệp và địa phương có thêm công cụ để điều tiết kế hoạch thu hoạch, xuất khẩu, tránh tình trạng dồn ứ tại cửa khẩu và giảm rủi ro về giá.

Đồng thời, việc cấp mã mở ra điều kiện thuận lợi để thực hiện các hợp đồng đã ký giữa người dân và doanh nghiệp, hạn chế tranh mua, tranh bán. Từ nay, việc rải vụ không chỉ là kỹ thuật canh tác, mà còn là chiến lược thị trường.

Tuy nhiên, cơ hội cũng đi kèm với thách thức. Được chấp thuận mã số chỉ là điều kiện đầu vào. Muốn trụ vững, người trồng sầu riêng phải tuân thủ chặt chẽ quy trình canh tác, xử lý sau thu hoạch và đóng gói theo đúng những gì đã cam kết. Điều đó đòi hỏi cả hệ thống, từ hợp tác xã, doanh nghiệp, đến từng hộ nông dân, phải nâng cao ý thức và tự giác làm đúng.

Người tiêu dùng Trung Quốc rất ưa chuộng sầu riêng Việt Nam nhưng cũng rất khắt khe. Cấp mã rồi không có nghĩa là yên tâm, mà càng phải siết kỷ luật, giữ uy tín.

PV: Trong bối cảnh vùng trồng mở rộng nhanh, làm thế nào để bảo đảm sự đồng bộ và chất lượng sản phẩm?

Ông Huỳnh Tấn Đạt: Thực tế hiện nay cho thấy, còn nhiều vùng trồng mới phát triển mang tính tự phát, điều này đặt ra thách thức rất lớn trong việc đồng bộ hóa quy trình sản xuất. Sầu riêng là mặt hàng có giá trị kinh tế cao, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt và ổn định. Không thể làm theo kiểu thấy người ta trồng được là mình trồng theo. Cây không giống, đất không hợp, phân không chuẩn thì làm sao có trái đạt chuẩn xuất khẩu?

Trước tình hình đó, Cục đang xây dựng một bộ hướng dẫn kỹ thuật cụ thể, đặc biệt dành cho các vùng trồng mới. Song song, chúng tôi cũng đang thiết kế một bản đồ dinh dưỡng đất trồng sầu riêng trên phạm vi toàn quốc, nhằm giúp người dân xác định đúng loại đất phù hợp, tránh lãng phí và sai sót ngay từ đầu. Dữ liệu từ bản đồ này sẽ được tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng trồng, từ đó hỗ trợ việc quản lý và truy xuất nguồn gốc một cách minh bạch, thuận tiện hơn.

Bên cạnh đó, Cục cũng đề xuất xây dựng văn bản hướng dẫn quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói cho các địa phương. Đây không chỉ là một giải pháp kỹ thuật, mà còn là công cụ để tất cả các bên, từ người nông dân, hợp tác xã đến cơ quan quản lý, cùng vận hành theo một tiêu chuẩn chung, thống nhất với thông lệ quốc tế.

Chúng tôi xác định rằng công tác kiểm tra, giám sát không thể chỉ tập trung ở khâu cuối cùng. Ngành đang từng bước chuyển hướng kiểm soát từ “cuối chuỗi” về “đầu nguồn”. Trong bối cảnh trái cây tươi có áp lực lớn về thời gian do tính mùa vụ và hạn sử dụng, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy và Thứ trưởng Hoàng Trung đã chỉ đạo tăng cường lực lượng kiểm dịch không chỉ tại cửa khẩu, mà cả tại các vùng trồng trọng điểm.

Thậm chí, chúng tôi đang tính đến phương án cử cán bộ kỹ thuật hỗ trợ trực tiếp tại vùng sản xuất, một hình thức kiểm dịch “đi trước một bước”, giúp xử lý từ nguồn và rút ngắn đáng kể thời gian thông quan.

Từ những vấn đề nổi cộm như tồn dư kim loại nặng, kiểm soát quy trình và vận hành phòng thử nghiệm, có thể thấy rõ một điều: nếu muốn giữ vững các thị trường xuất khẩu lớn và khắt khe như Trung Quốc, Việt Nam không thể làm ăn theo kiểu “mỗi nơi một kiểu, mỗi vụ một cách”. Chúng ta cần một hệ thống tiêu chuẩn xuyên suốt từ đất, cây, phân bón đến sổ tay ghi chép và mã số truy xuất.

Và quan trọng hơn cả, cần có một tư duy mới: xuất khẩu chính ngạch không chỉ là việc của doanh nghiệp, mà là hành trình đồng bộ từ người nông dân, hợp tác xã cho tới cán bộ kỹ thuật. Chỉ khi tất cả các mắt xích trong chuỗi này nhận thức rõ rằng mình đang nắm giữ một phần “giấy thông hành” mang tên niềm tin, thì trái sầu riêng Việt Nam mới thực sự đủ sức vươn xa, không chỉ trong một mùa vụ, mà là bền vững trong nhiều năm.

PV: Ông có thông điệp gì gửi đến người trồng, doanh nghiệp và các địa phương để ngành sầu riêng phát triển một cách bền vững trong thời gian tới?

Ông Huỳnh Tấn Đạt: Trước hết, tôi muốn nhấn mạnh rằng, tất cả các chủ thể tham gia chuỗi giá trị xuất khẩu sầu riêng, từ người trồng, doanh nghiệp đến chính quyền địa phương, cần tuyệt đối tuân thủ các quy định đã cam kết trong Nghị định thư với phía Trung Quốc. Đặc biệt là ba trụ cột cốt lõi: an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và minh bạch quy trình sản xuất.

Nói đến xuất khẩu chính ngạch là nói đến sự đồng bộ. Một lô hàng xuất khẩu không chỉ mang danh của doanh nghiệp, mà còn mang theo danh dự của người trồng, của vùng trồng, và của cả quốc gia.

Mỗi bước là một lớp chắn, nhưng quan trọng là phải được vận hành đồng bộ, liên kết, tạo thành một “vành đai kiểm soát” quanh cây trồng, từ khi còn là nắm đất.

Bên cạnh đó, Cục đang triển khai nhiều mô hình cải tạo đất theo từng vùng sinh thái, nhằm xử lý tận gốc nguy cơ tích tụ kim loại nặng. Ba nhóm giải pháp đang được thử nghiệm tại bảy mô hình tiêu biểu gồm: Sử dụng phân bón chứa biochar (than sinh học) để hấp thu và khóa giữ kim loại nặng trong đất; Áp dụng phân bón cải tạo đất giúp tăng độ pH, hỗ trợ rễ cây hấp thu dinh dưỡng lành mạnh; luân canh hoặc trồng xen cây thân ngầm có khả năng hút kim loại nặng, sau đó ủ thành phân hữu cơ, vừa cải tạo đất, vừa tiết kiệm chi phí.

Đây không chỉ là kỹ thuật, mà còn là lời nhắc: muốn xuất khẩu bền vững, phải thay đổi tư duy, không thể chỉ trông vào “một mùa được giá”.

Một điểm đặc biệt quan trọng là trách nhiệm của chủ sở hữu mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói. Mỗi mã số là một tài sản. Nếu không coi đó là tài sản cần được bảo vệ, sẽ đến lúc mất cả thương hiệu. Chúng tôi khuyến cáo các địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã cần đầu tư nghiêm túc cho việc ghi chép hồ sơ sản xuất, bảo đảm tính nhất quán giữa thực tế và hồ sơ đăng ký. Đồng thời, cần xây dựng bộ quy chuẩn canh tác phù hợp với đặc thù từng vùng sinh thái, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường nhập khẩu, đặc biệt là Trung Quốc.

Tôi muốn nhấn mạnh thêm: Không một ngành, một địa phương hay một doanh nghiệp đơn lẻ nào có thể đảm đương sứ mệnh nâng tầm chất lượng sầu riêng Việt. Tất cả các bên người trồng, nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp, phải cùng “đứng chung một chuỗi giá trị”.

Nếu làm tốt, đạt chuẩn, các nước nhập khẩu sẽ có cơ sở để giảm tần suất kiểm tra. Khi đó, không chỉ tiết kiệm chi phí, mà doanh nghiệp còn tăng tốc độ thông quan, nâng sức cạnh tranh và tránh ùn ứ tại cửa khẩu.

Tôi kỳ vọng rằng, việc gần 1.000 mã số mới được Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) phê duyệt sẽ không chỉ là dấu ấn về số lượng, mà sẽ trở thành đòn bẩy giúp ngành sầu riêng Việt Nam tái cơ cấu theo chiều sâu, từ cách nghĩ đến cách làm, từ cây giống đến mã số, từ cánh đồng đến thị trường. Chúng ta đang đứng trước cơ hội chưa từng có. Nhưng để đi xa, cần một chiến lược dài hơi, nơi chất lượng không phải là khẩu hiệu, mà là nguyên lý sống còn.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!

THANH TRÀ

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/cap-gan-1000-ma-so-moi-cho-sau-rieng-co-hoi-lon-trach-nhiem-cao-post881614.html
Zalo